Có mấy loài rắn trong bài thơ tương truyền của Lê Quý Ðôn?
Giai thoại kể rằng, Tiến sĩ Vũ Công Trần đến thăm Tiến sĩ Lê Phú Thứ là người bạn cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn 1724.
Nghe nói con bạn là Lê Quý Đôn còn trẻ mà đã hay chữ, tuy nhiên thỉnh thoảng chểnh mảng, lười học, ham chơi… nên cụ Vũ Công Trần ra đầu đề “Rắn đầu biếng học” để thử tài thằng bé. Chỉ một chốc, Lê Quý Đôn đã làm xong bài thơ, trong đó có rất nhiều tên rắn.
Bài thơ có một số chữ xuất nhập nhưng đại đồng tiểu dị là như sau:
“Chẳng phải liu điu cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học lỗi không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da
Từ nay Trâu Lỗ xin chăm học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia”.
Trong quá trình được giao viết một số mục trong chương trình thực hiện dự án “Quốc chí Việt Nam”, chúng tôi quan tâm đến mục “Chơi chữ” trong lời nói và văn chương nước ta, tất nhiên là thi phẩm “Rắn đầu biếng học” cũng khiến chúng tôi suy ngẫm khảo cứu. Chơi chữ thật muôn màu muôn vẻ và chơi chữ trong văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm lại càng tinh vi, ngầm ẩn. Cần tiếp cận cả về ngôn ngữ, văn hóa, thi học, thể loại… để thấu hiểu nó.
Qua bài thơ rất giàu ẩn dụ này, xưa nay, nhiều người đã nhận ra những từ như:
1. “Liu điu” (câu 1), vốn nghĩa đen chỉ một loài hình rắn như đòng đong, cân cấn và rắn mới nở: “Trứng rồng lại nở ra rồng/ Liu điu lại nở ra dòng liu điu”. Nhưng nghĩa rộng dùng để chỉ những giống nhỏ bé, hèn mọn, đối lập với “giống nhà”, “thế gia”.
2. “Rắn” (câu 2), đồng âm với chữ “rắn” là cứng và “rắn” cũng chỉ loài rắn như đề bài đã ra.
3. “Hổ lửa” (câu 3), nằm trong cấu trúc nhại thành ngữ 4 chữ là “thẹn đèn hổ lửa” với nghĩa là thẹn thùng, ngượng ngùng, hổ thẹn với công lao đèn lửa của thân mẫu và của cả chính mình. “Hổ lửa” cũng là tên của một loài rắn.
4. “Mai gầm” (câu 4), nằm trong cấu trúc nhại thành ngữ 4 chữ “nay thét mai gầm”, chỉ sự quát nạt, răn đe thường xuyên của bậc nghiêm đường. Đồng thời, “mai gầm” chỉ tên loài rắn “mai gâm” vì gần âm và chữ Nôm có thể ký tự biểu âm chữ “gâm” hay “gầm” đều bằng âm Câm / Kim (không thanh huyền).
5. “Ráo” (câu 5) được dùng với nghĩa động từ như se, khô nhưng cũng để chỉ loài rắn ráo, miền Trung, tùy từng nơi, còn gọi là “rắn lại”, “rắn lục”, màu xanh lá cây, hay nằm trên lùm bụi, lẫn vào màu lá, ngày ngủ, đêm săn mồi.
6. “Lằn”, (câu 6), chỉ vệt hằn trên da khi bị đánh bằng roi, đồng thời chỉ loài “thằn lằn” - một loại bò sát, còn được gọi là rắn mối.
7. “Trâu” (câu 7), nằm trong từ “Trâu Lỗ”. Đất Trâu là quê hương của Mạnh Tử, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Nghĩa khác lại là chỉ ấp Trâu, huyện Khúc Phụ, nơi sinh của Khổng Tử. “Lỗ” là nước Lỗ xưa, nơi Khổng Tử đã được sinh ra. Bởi thế những người học Nho dùng hai chữ “Trâu Lỗ” để chỉ học trò tu nghiệp Nho giáo. Đồng thời “trâu” cũng là tên của rắn “hổ trâu” một loài rắn lớn, màu đen, không có nọc độc, sống trong hang vùng bán sơn địa, khi bò thì đầu chúi xuống, không ngẩng cao.
8. “Hổ mang” (câu 8) nghĩa là mang tiếng hổ thẹn cho gia đình danh giá. Đồng thời đó là tên một loài rắn vằn vện, có thể bành rộng cổ mình ra do nó có xương sườn kéo dài. Có thể thành ngữ “phồng mang trợn mắt” vốn xuất phát từ việc tả loài rắn dữ tợn này rồi sau đó mới chỉ thái độ con người (tương tự “khô chân gân mặt” vốn tả trâu khỏe nhưng hiện nay đang dùng chỉ người).
Như vậy, theo nhiều người, mỗi câu chứa đựng ẩn ngữ một loài rắn. Tuy nhiên, nếu quen với việc chơi chữ trong thơ ca trung đại và văn hóa cổ truyền, ta có thể nhận ra còn những liên tưởng về loài rắn trong bài thơ rất thú vị:
9. “Thẹn” (câu 3): Tái lập bản chữ Nôm, chúng ta nhận ra chữ “thẹn” (với nghĩa thẹn thùng) đa số được biểu âm bằng chữ “thiện” Hán Việt (Ngập ngừng thẹn lục e hồng). Mà âm “thiện” trong Hán Việt (có bộ Trùng biểu ý) lại còn có nghĩa là con lươn, con giun đất, một loài thuộc về rắn. Lạ hơn nữa, trong chữ Nôm, khi viết chữ “thiện” (với nghĩa thiện lương, thiện tâm) từ điển chữ Nôm cho ta cách ghi bằng chữ “thiện” nghĩa là con lươn này. Vậy nhà Nho xưa khi nhìn thấy hình ảnh ký tự dạng đó trong bài thơ, chắc chắn họ sẽ gật gù thừa nhận cái tài của tác giả. Theo truyền thống Đường thi hoặc thơ ca trung đại, hình ảnh ký tự đóng một vai trò quan trọng trong thông điệp thơ ca. Điều này được nhiều nhà nghiên cứu thi pháp thơ Đường ghi nhận.
10. Tương tự như vậy, với chữ “đèn”. Từ điển chữ Nôm cho ta cách ghi mà bộ phận biểu âm đều dùng chữ “điển”. Nếu đi với bộ hỏa (điển), ta có chữ “đèn”. Nhưng nếu đi với bộ Trùng (điển) ta sẽ có chữ “đẻn” và nghĩa của nó được từ điển chú là “Rắn, cây đẻn đẻn”. Trong trường hợp chỉ viết phần biểu âm (viết tắt, viết nhanh trong chơi chữ) thì chắc chắn sẽ chỉ viết cùng phần biểu âm là “điển” (cho cả “đèn” và “đẻn”) mà thôi. Bây giờ, chúng ta biết con đẻn là một loài rắn biển. Nhẽ nào các cụ không mỉm cười với sự láu lỉnh của tác giả bài thơ.
11 và 12. “Nay thét mai gầm” là sao đây? Tự nhiên, ta liên tưởng đến Trương Hống - Trương Hát. Cái này từ xưa, giáo sư Đinh Gia Khánh đã giảng rằng hai vị thần này là hai con rắn, được sinh ra bởi trong bọc trứng của bà mẹ thần thoại bị rắn quấn dưới sông. “Hát” là hét, thét. “Hống” là gầm, rống, kêu to. Đền thờ chính là Đền Xà ở ngã ba sông Cà Lồ - sông Cầu - sông Thương, gọi là Đức Thánh Tam Giang, có đến trên 372 đền thờ trên vùng Bắc Ninh, Bắc Giang xưa. “Xà” thì chắc chắn là rắn rồi. Với các cụ nhà Nho xưa thì “Sử ký” và “Lĩnh Nam chích quái” (các tác phẩm ghi về Trương Hống, Trương Hát) các cụ đọc nhuần nhị. Cái vang bóng của biểu tượng rắn Hống - Hát này chắc được các cụ tiếp nhận và liên tưởng một cách thâm trầm qua “thét” và “gầm”.
Như vậy là ta đã tính được có tối thiểu 12 ẩn dụ về rắn qua ngôn ngữ thơ chơi chữ đồng âm, ý tại ngôn ngoại của tác phẩm. Có thể ai đó sẽ chứng minh thêm qua một hình thức dị bản nào đó. Ví như các cụ ở Nghệ Tĩnh truyền miệng “Rắn đầu biếng học lại không tha”. “Lại” tiếng Nghệ là vái lạy. Vái lạy cũng không tha, rồi phải đánh đòn. “Lại” còn là “rắn lại”. Hoặc họ giảng rằng, “Lỗ” là loài rắn lỗ, còn gọi là rắn ổ, rắn họ, rắn sọc… nhỏ như ngón tay, thân có sọc đen trắng hoặc vàng chạy dọc, sống thành từng ổ trong hang, nọc cực độc, rất hay trả thù khi bị ai phá lỗ của nó…
Như vậy, nếu tin cả vào các cụ, chúng ta có đến 14 tên rắn trong một bài thơ Nôm thất ngôn bát cú.
Sự phong phú của ngôn ngữ phản ánh văn hóa của một cộng đồng cư dân nông nghiệp sống với địa hình đồng trũng đầy sông ngòi, ao hồ, cây cỏ, bán sơn địa cổ xưa.