Nỗ lực với nhiều giải pháp thực hiện xã hội hoá sách giáo khoa
Dù còn nhiều khó khăn, thách thức, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam xác định rõ lộ trình, giải pháp để thực hiện hiệu quả chủ trương xã hội hóa sách giáo khoa thời gian tới.
Bên cạnh tập trung nâng cao chất lượng sách giáo khoa, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam cũng nỗ lực triển khai xã hội hóa sách giáo khoa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Để hiểu rõ hơn về nội dung này, phóng viên Báo Hànộimới đã phỏng vấn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tùng, Phó Tổng Biên tập Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam.
-Để có được một bộ sách vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới cần sự nỗ lực rất lớn của đội ngũ biên soạn, xuất bản. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xuất bản sách giáo khoa, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đang gặp phải những khó khăn gì?
-Có rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ biên soạn, xuất bản sách giáo khoa mới. Khó khăn trước hết có thể kể đến, đó là việc xây dựng đội ngũ tác giả trong bối cảnh nhiều đơn vị xuất bản cùng tìm kiếm tác giả viết sách giáo khoa nên gặp nhiều khó khăn để có được những đội ngũ tác giả tốt. Đây cũng là lần đầu tiên biên soạn sách giáo khoa theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực nên về mặt lý luận còn nhiều quan điểm khác biệt... Vì vậy, chúng tôi đã trải qua rất nhiều cuộc trao đổi, thảo luận để thống nhất hướng triển khai bảo đảm đúng tinh thần đổi mới.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xuất bản sách giáo khoa, chúng tôi còn gặp khó khăn do thời gian giới thiệu, tập huấn giáo viên về sách giáo khoa mới quá ngắn, tập trung dồn dập vào một vài tháng hè. Để giáo viên nắm bắt và thực hiện đúng những ý tưởng, đổi mới của sách giáo khoa và triển khai trong công tác giảng dạy là một việc không dễ dàng. Có môn học phải điều chỉnh thời lượng, chỉnh sửa chương trình dẫn đến phải biên soạn, thẩm định lại bản mẫu sách giáo khoa… Điều này làm phát sinh thêm nhân lực, chi phí và thời gian...
Theo lộ trình đổi mới sách giáo khoa, từ năm 2021, mỗi năm nhà xuất bản cùng lúc phải tổ chức biên soạn, trình thẩm định sách giáo khoa mới của 3 lớp thuộc ba cấp học. Kèm theo việc biên soạn sách giáo khoa còn có các công tác thực nghiệm, thẩm định, bồi dưỡng, tập huấn giáo viên...; kèm theo bản mẫu sách giáo khoa còn phải có thêm hệ thống phụ trợ là sách giáo viên, sách điện tử, thiết bị - học liệu giáo dục... Việc phải hoàn thành tất cả những công việc này cùng lúc trong năm đã tạo áp lực lớn cho Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam.
-Ông có thể chia sẻ về quá trình thực nghiệm sách giáo khoa của Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam để bạn đọc hiểu rõ hơn những khó khăn, thách thức mà đơn vị đã phải đối mặt?
-Về thực nghiệm sách giáo khoa, đối với một số môn ngoại ngữ 1, 2 như tiếng Nga, tiếng Trung, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Đức, chúng tôi gặp một số khó khăn khi thực nghiệm theo đúng yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đối tượng thực nghiệm, địa bàn thực nghiệm. Lý do vì rất ít địa phương tổ chức dạy học các môn học này.
Thêm nữa, tài liệu giáo dục địa phương do chưa có đủ các căn cứ pháp lý quy định và văn bản hướng dẫn. Điều này cũng khiến Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam gặp nhiều trở ngại trong việc tổ chức đấu thầu biên soạn, in ấn, phát hành, dẫn đến một số lượng lớn bản thảo chưa được xuất bản để đến tay người học.
-Theo ông, cần có những cơ chế, chính sách gì để quá trình xã hội hoá sách giáo khoa hiệu quả hơn?
-Hiện nay, quy định của pháp luật đối với các loại hình doanh nghiệp trong tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức xuất bản - in - phát hành sách giáo khoa khác nhau nên tạo nên cơ chế cạnh tranh không bình đẳng. Các doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty cổ phần được quyền chủ động tổ chức sản xuất, chủ động mua sắm vật tư, dịch vụ in trực tiếp mà không phải thực hiện các quy trình, thủ tục đấu thầu như doanh nghiệp nhà nước nên thời gian, tiến độ thực hiện rất ngắn gọn, chủ động, tạo ưu thế cạnh tranh hơn doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, chúng tôi mong muốn Nhà nước có chế độ, chính sách bình đẳng đối với các nhà xuất bản trong hoạt động xuất bản, in, phát hành sách giáo khoa.
-Theo ông, ngành Giáo dục cần làm gì để nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của xã hội hóa sách giáo khoa trong đổi mới giáo dục?
-Chủ trương xã hội hóa biên soạn sách giáo khoa là quan điểm tiến bộ. Sự đột phá này làm thay đổi chất lượng cũng như diện mạo của giáo dục Việt Nam, nên cần quyết tâm, kiên định, vượt khó để triển khai. Tôi cho rằng, ngành Giáo dục cần chủ động tuyên truyền rộng rãi tính ưu việt của chủ trương một chương trình có nhiều sách giáo khoa và những bất cập khi chỉ có một bộ sách giáo khoa.
Bên cạnh đó, cần quan tâm đến công tác quản lý chuyên môn một cách thực chất, đó là phải bằng chương trình chứ không phải là sách giáo khoa. Việc thi cử được thực hiện theo yêu cầu cần đạt của chương trình. Chương trình là yếu tố tĩnh, sách giáo khoa là yếu tố động. Giáo viên lựa chọn sách giáo khoa phù hợp với điều kiện, phương pháp giảng dạy để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Đây được xem như độ mở sáng tạo cho giáo viên và học sinh nhằm dần loại bỏ tình trạng thầy đọc - trò chép, dạy thêm học thêm...