Bài tham dự Cuộc thi viết “Kỷ niệm 70 năm Giải phóng Thủ đô: Ký ức tự hào”:Nhà tôi ở đó
Năm 1957, tôi về Hàng Buồm, học vỡ lòng chỗ Chợ Gạo, gần nhà tắm công cộng, kho xay xát đầy bụi trấu.
Lớp tầng hai ồn nhưng sáng sủa, bàn khoét lỗ để lọ mực, rãnh tròn đặt bút nhoe nhoét mầu tím, ngăn dưới vừa chiếc cặp. Thầy Dũng vạm vỡ mặc bộ kaki phi viên phấn trúng ngay đứa ngủ chảy dãi. Tôi được khen biết đọc báo sớm, chắc Nhân Dân hay Thời Mới. Chị em tôi chả thích chỗ mới chật hẹp, ngột ngạt, nên đi bộ về chỗ cũ ở xóm Hạ Hồi chơi. Con ngõ ấy trổ nhiều “đầu” ra phố khác, tĩnh lặng, toàn biệt thự hai tầng thấp thoáng dưới bóng cây. Đến đoạn từng trải mới biết cảm giác trẻ con của mình rất “khôn”, chuyển từ khu “ở lầu Tây” đến chỗ “ăn cơm Tầu”. Dầu sao thì cũng trở thành “người phố cổ”, cái “danh xưng” nhiều người lấy làm tự hào, với mình thật đến lắm cực đoan nghịch ngược.
Ký ức đến đoạn nhù nhòa, mang máng giữ lại những địa chỉ của Hàng Buồm 300 mét. Số 8 nhà Thanh Hóa bán nước mắm, đồng mốt hay đồng rưỡi đều đong duộc tre, đâu gần đình Tử Dương rất khiêm nhường. Số 22 Hội quán Quảng Đông thênh thang lợp ngói âm dương, hình như có vòi nước công cộng ngoài hè, hôm nào chảy thành ngày hội. Đình Quan Đế thờ ông tướng Tầu thời Tam quốc, người đi khai hoang những năm sáu mươi về “nhảy dù” chật cứng. Số 19 trước mặt là Hội Hoa Liên (Liên hiệp Hoa kiều), gốc si và cơm nguội cuốn nhau giờ vẫn còn, trở thành “cây di sản” của con phố gần như không có cây. Gần nhà bà Phùng tổ phó tổ len là hiệu sách Trung Văn. Tôi hay lê la xem ké truyện tranh Triệu Tử Long ngời ngời qua khung kính, còn vì có quạt trần và nền gạch hoa mát rượi. Nhà Mỹ Kinh nổi tiếng số 74 hôm khai trương treo chục tấm bảng, phân chia thành “xào”, “nướng”, “hấp”. Ngày tôi tốt nghiệp cấp một, bà chị xong cấp hai, cả nhà sang ăn mừng, nhớ nhất món cá bỏ lò. Rồi dãy bảng hạ xuống, quốc doanh ăn uống bán phở là chính, bát chín hai hào rưỡi, tái ba hào. Đề phòng mậu dịch viên quay vòng vé, người mua nhận “xèng” nhôm đục lỗ lồng dây thép, tuần tự theo hàng tiến vào bếp nhận bát phở. Đứng thế rất mỏi, căng thẳng vì tay phải giữ “xèng”, không thể chạy đi đâu, nhưng luyện được thói kiên nhẫn. Chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ lan về, Mỹ Kinh thêm “phở không người lái”, “bánh bao bất nhân”.
Qua đoạn cắt Hàng Giầy là một trời ẩm thực. Tôi chả biết cao lâu Đông Hưng Viên cụ Tô Hoài kể ở đâu, chỉ nhớ cơm tám giò chả Đại Lợi bên lẻ, thịt quay Vạn Thành số 108 mấy chị em đứng bán da mịn màng như bôi mỡ. Chiều đi học về, gà vịt quay đỏ ối chạy ra vỉa hè, dao thớt côm cốp xong lùa vào lá sen, thêm kiệu muối. Thành ngữ “Rốn ông Tầu Hàng Buồm” hẳn bắt đầu từ đây. Nhân Hòa Đường, Trung Hòa Đường…, mấy hiệu thuốc Bắc dao cầu thuyền tán rộn rã. Giữa quy, thục, quế tỏa hương, ông lang chậm rãi xem mạch kê đơn, rón rén cân tiểu ly rồi xoành xoạch gẩy bàn tính. Sang những năm tám mươi, đây lại là “thủ đô” bánh kẹo, rượu ngoại, đồ nguội, cán bộ công tác nước ngoài về thường đem pho mát “Bò cười”, rượu Napoleon, Mao Đài ra bán. Truyện ngắn “Vĩnh biệt Johnnie Walker” trên Báo Văn nghệ kể ông hàng nọ thích đánh dấu vào chai rượu đem bán, ngày đẹp trời nhận ra “nó” quay lại với mình, chả hiểu đã được biếu bao lần.
Giữa thế giới ẩm thực ấy lại có một địa chỉ văn hóa: Rạp Kim Môn số 88. Đoạn chiếu phim tôi không rành, chỉ hay sau thành Nhà Văn hóa thành phố. Chiến tranh hết, nhu cầu hưởng thụ trở lại, đây là một trong vài địa điểm khiêu vũ mở sớm nhất, thanh lịch chứ không rặt quần bò mũ cối. Số 76 có ngách nhỏ, tổ phục vụ bán nước sôi năm xu phích hai lít rưỡi. Tôi chỉ biết đấy là đình Bạch Mã, không ngờ là một di tích lớn trong Thăng Long tứ trấn, chiếm chỗ trọng trong tâm thức người Hà Nội. Chính điện tối, ông từ khô đét lừ lừ ra vào giữa khói hương. Cậu tôi sinh năm 1926 kể áp Tết đến đây lau dọn đồ thờ “rất sợ”, sáng mùng Một thì cả nhà bên Hàng Đường sang lễ. Vậy có phải cụ ngoại tôi đi làm ăn, đem bài vị từ quê Hải Dương lên thờ trong đình? Những đình đền chùa khác có chỗ “phối thờ” thế không? Khu phố cổ (nhà sử học Dương Trung Quốc gọi là “cũ”) có vài chỗ thờ Tổ nghề, như nhuộm vải bên Hàng Đào, đồ da ngõ Hàng Hành. Ắt hẳn chúng chứng kiến giai đoạn thị dân chuyển từ bán nông bán thương sang buôn bán thuần túy.
Hàng Buồm đâu đó có 126 số nhà, số 63 của tôi “đúng giữa phố” lồi hẳn ra, vỉa hè đằng trước rộng chỉ 80 phân. Ngoài cùng là ông thợ may, hiệu Đức Hạnh quần áo trẻ con nổi tiếng ở Hàng Trống. Phía trong là tổ đan len, các bà tay nhoay nhoáy miệng kháo rào rào. Cả chạ người nên lắm rệp, vài tháng đổ nước sôi và thuốc DDT vào khe phản, hòm len. Nhà tôi chủ yếu ở gác ngoài, sàn lim cọt kẹt, giếng giời giữ thoáng và câu hàng lên, mái có ngói kính. Nhìn cây xà lim võng oằn xuống rất kinh, chả biết sập lúc nào. Không nước, bắc ống cao su lắp vào vòi nhà ông lang Chính Đại số 65 cho chảy vào phuy, mùa đông tắm rất tốn nghị lực. Cống thấm, bếp và nhà xí chung, đi vệ sinh thành cực hình “tế nhị”. Trong cùng là ông Nghề bốc vác, đám con trai đông đúc luôn ồn ĩ. Chả hiểu sao ngần nấy mét vuông lại nhồi được bao nhiêu hộ, nhân lên những người là người. Sau này có môn “Hà Nội học”, mới biết đấy là nhà ống “đặc trưng phố cổ”. Nhưng vẫn phân vân “buồm” đây là vỉ buồm đậy thúng xôi, rượu nếp, hay lá buồm trên con thuyền, như Tây gọi là “rue des voiles”.
Hàng Buồm là phố của Hoa kiều và người nghèo, các bà già trông không tinh tế, sang trọng như bên Hàng Trống, Hàng Bạc. Phố xá xung quanh đọng lại cơ man “di tích”. Tường đầu Hàng Giầy quảng cáo giầy “đơ cu lơ”. Qua phở Vui là chàn xì dầu luôn thum thủm, quán lục tào xá có con ngựa đá, hiệu cắt tóc. Vợ con nhà thơ Hoàng Công Khanh sống vất vả, hằng ngày từ ngõ Nội Miếu sang nhà tôi đan len.
Lãn Ông có Hội quán Phúc Kiến, các ông lang người Hành Thiện, Cầu Bây xem mạch, dân Ninh Hiệp buôn thuốc sống. Ngõ Sầm Công có bàn thờ Sầm Nghi Đống. 50 Đào Duy Từ, chừng trăm năm trước, ông ngoại tôi cùng hai ông Nguyễn Quang Oánh, Đỗ Thận lập Sán Nhiên Đài, rạp chèo đầu tiên diễn trên sân khấu hộp của Hà Nội. Dãy trên cùng đắt nhất ngồi ghế mây, rồi ghế gỗ, sau cùng là vé đứng, lổn nhổn con sen thằng ở đi gánh nước tranh thủ thưởng thức. Kim Lan, Kim Phụng, Chuông Vàng, Quảng Lạc…, đến lắm rạp mọc lên, các bà đang xem xụp lạy Quan Công râu dài mặt đỏ trên sân khấu. Tạ Hiện có hàng chim quay ngon nổi tiếng tôi chưa được xơi, chỉ nhớ chảo mỡ sôi, người Hoa cho miếng bột nhào vào nở phình thành thanh quẩy. Lại một ông quắt queo đeo hòm gỗ “vẽ” chữ Tây Cacahuete bán rong lạc rang húng lìu.
(Còn nữa)