Quy định mới về tính định mức giáo viên theo vùng nhận được đồng thuận
Quy định mới về việc chia vùng để tính định mức giáo viên và điều chỉnh định mức giáo viên/học sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo đang nhận được nhiều phản hồi tích cực và đồng thuận cao.
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành Thông tư số 2020/2023/TT-BGDĐT hướng dẫn về vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và định mức số lượng người làm việc trong cơ sở giáo dục phổ thông, trường chuyên biệt công lập, có hiệu lực từ ngày 16-12-2023 và thay thế Thông tư số 16/2017/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Một trong những điểm mới của Thông tư số 2020/2023/TT-BGDĐT là quy định về chia vùng để tính định mức giáo viên. Thông tư cũng quy định số lượng học sinh/lớp theo vùng để làm căn cứ giao hoặc phê duyệt số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông công lập.
Chia vùng để tính định mức giáo viên được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định như sau: Vùng 1 gồm các xã khu vực II, khu vực III theo quy định hiện hành thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển; xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; xã đảo, hải đảo, xã biên giới, xã an toàn khu theo quy định của Chính phủ.
Vùng 2 gồm các xã khu vực I (trừ các phường, thị trấn) theo quy định hiện hành thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Vùng 3 là các phường, thị trấn thuộc khu vực I theo quy định hiện hành thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và các xã, phường, thị trấn còn lại.
Quy định số lượng học sinh/lớp theo vùng để làm căn cứ giao hoặc phê duyệt số lượng người làm việc trong cơ sở giáo dục phổ thông nêu, vùng 1: Bình quân 25 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; 35 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông. Vùng 2: Bình quân 30 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; 40 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông. Vùng 3: Bình quân 35 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; 45 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông. Việc xác định số lượng học sinh/lớp được tính cụ thể theo từng cơ sở giáo dục, không xác định theo đơn vị hành chính cấp xã, huyện, tỉnh.
Ghi nhận từ thực tế cho thấy, quy định về chia vùng để tính định mức giáo viên và điều chỉnh định mức giáo viên/học sinh nhận được nhiều phản hồi tích cực của địa phương, cơ sở giáo dục. Cách tính như trên phù hợp thực tiễn khách quan, thực tế tại các địa phương, cơ sở giáo dục. Quy định mới cũng được đánh giá sát thực tiễn, phù hợp điều kiện từng vùng và không còn tình trạng “cào bằng” định mức giáo viên giữa các vùng miền. Trước đây, có nơi sĩ số 50-60 em/lớp cũng giống nơi có 15-20 em/lớp, điều này dẫn đến bất cập vì cách tính định mức chưa sát thực tế.