Chính trị

Kỷ niệm 78 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 (1945 - 2023): Tự hào hai tiếng “Việt Nam”

Quốc Huy 18/08/2023 08:43

Chính thức trở thành quốc hiệu nước ta từ cách đây hơn 2 thế kỷ, hai tiếng “Việt Nam” ngày nay đã được sử dụng phổ biến, trở nên thiêng liêng, tự hào và gần gũi. Tuy nhiên, nguồn gốc, ý nghĩa và nhất là quá trình hình thành quốc hiệu đó vẫn là những vấn đề lý thú, được nhiều người quan tâm.

cotco.jpg
Cột cờ Hà Nội. Ảnh: Marcus Lacey

Nhiều kết quả nghiên cứu thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi chính sử của nước ta và Trung Quốc đều ghi nhận cụ thể việc này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) phái hai đoàn sứ giả sang Trung Quốc. Một đoàn do Thượng thư bộ Hộ là Trịnh Hoài Đức làm Chánh sứ, đem trao trả lại sách ấn mà triều Thanh phong cho nhà Tây Sơn. Đoàn kia do Thượng thư bộ Binh là Lê Quang Định làm Chánh sứ, đề cập việc phong vương cho Nguyễn Ánh và đặt quốc hiệu là Nam Việt. Lời quốc thư của Nguyễn Ánh có đoạn: "... Mấy đời trước mở đất viên giao càng ngày càng rộng, gồm cả nước Việt Thường và nước Chân Lạp, đặt quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn hai trăm năm. Nay tôi lấy hết cõi Nam, có toàn miền đất Việt, nên theo hiệu cũ để chính quốc danh...".

Cũng năm 1802, nhà Thanh công nhận danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (năm 1804), sứ giả nhà Thanh là Tề Bố Sâm mới mang cáo sắc, quốc ấn đến Thăng Long làm lễ phong vương cho Nguyễn Ánh. Như vậy, phải đến năm 1804 quốc hiệu Việt Nam mới được chính thức thừa nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao.

Trong cuốn "Nước Đại Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa", tác giả người Nhật Bản Yoshiharu Tsuboi khẳng định: "Năm 1803, có những cuộc thương thảo rất quan trọng về quốc hiệu dưới triều Nguyễn: Nam Việt hay Việt Nam". Sở dĩ nhà Thanh muốn sửa "Nam Việt" thành "Việt Nam" là vì hai lý do. Thứ nhất, trong lịch sử Trung Quốc từng có Triệu Đà nổi dậy cát cứ, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Hoàng đế; các triều đại trung ương ở Trung Quốc đều không thừa nhận nước Nam Việt. Nhà Thanh cũng vậy và không muốn bị gợi lại quá khứ ấy. Thứ hai, Nam Việt - theo cách hiểu truyền thống - có thể gồm cả nước ta và các xứ Việt Đông, Việt Tây (tức Quảng Đông, Quảng Tây) của Trung Quốc, nên nếu đặt làm quốc hiệu nước ta, sau này sẽ gây rắc rối về mặt lãnh thổ. Quốc thư phúc đáp của hoàng đế nhà Thanh đã tế nhị trình bày lý do đó và khéo léo chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam: "... Lúc trước có đất Việt Thường đã xưng là nước Nam Việt, nay có cả đất An Nam, xét ra cho kỹ, thì nên gộp cả đất đai trước sau mà đặt danh hiệu tốt. Vậy, định lấy chữ Việt để trên, tỏ việc giữ đất cũ mà nối nghiệp trước; lấy chữ Nam đặt dưới, tỏ việc mở cõi Nam giao mà chịu quyền mệnh mới. Như thế thì danh xưng chính đại, nghĩa chữ tốt lành, so với hai đất Việt nước Tàu khác nhau xa lắm...".

Thực ra, không phải đến tận đầu thời Nguyễn mà tên gọi Việt Nam được biết đến ít nhất từ thế kỷ XIV, trong nhiều thư tịch đương thời như "Việt Nam thế chí” của Hồ Tông Thốc, "Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, "Trình tiên sinh quốc ngữ văn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, "Vân đài loại ngữ" của Lê Quý Đôn, "Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú... Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải sưu tầm được các văn bia (niên đại đều trước thế kỷ XVIII) có khắc tên gọi Việt Nam như bia chùa Bảo Lâm (Chí Linh, Hải Dương, có từ năm 1558), bia chùa Cam Lộ (Phú Xuyên, Hà Nội - 1590), bia chùa Phúc Thánh (Quế Võ, Bắc Ninh - 1664), bia Thủy Môn Đình (Đồng Đăng, Cao Lộc, Lạng Sơn - 1670), trong đó bia chùa Bảo Lâm và Thủy Môn Đình đã bị thất lạc, chỉ còn bản dập tại Viện Nghiên cứu Hán - Nôm. Tên gọi Việt Nam có lẽ mang ý nghĩa kết hợp nòi giống và vị trí cư trú địa lý của dân tộc ta (Việt Nam - nước của người Việt ở phía Nam), thể hiện tinh thần tự tôn, độc lập và phủ nhận sự áp đặt, miệt thị của người Trung Quốc. Tuy nhiên, tên gọi này chưa trở thành quốc hiệu vì chưa được các triều đại phong kiến nước ta tuyên bố hoặc ghi nhận bằng văn bản pháp luật.

Tên gọi Việt Nam lần đầu tiên chính thức trở thành quốc hiệu nước ta vào năm 1792 chứ không phải vào đầu thời Nguyễn. Nó được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng (chiếu) của Nhà nước Tây Sơn, niên hiệu Quang Trung thứ 5, và đã được thông báo cho nhà Thanh (Trung Quốc). Trong "Dụ Am văn tập" của Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài "Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mới" của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) vào mùa xuân năm Nhâm Tý 1792, nội dung có đoạn như sau:

"... Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài... Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ...". Tuy nhiên, triều Tây Sơn tồn tại khá ngắn, lại gặp nhiều phức tạp nội bộ nên quốc hiệu Việt Nam chưa được dùng phổ biến. Đến nay cũng chưa tìm thấy sử liệu đáng kể nào nói về phản ứng của các nước (nhất là nhà Thanh - Trung Quốc) với việc đổi quốc hiệu này.

Trong lịch sử nước ta, có một hiện tượng thú vị là quốc hiệu và tên gọi đất nước thường không thống nhất. Chẳng hạn, năm 1054, nhà Lý đổi quốc hiệu là Đại Việt, quốc hiệu đó liên tục tồn tại đến hết đời Trần (1400), thế nhưng chiếu nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh (ngày 10-1-1226) lại mở đầu bằng câu: "Nước Nam Việt ta từ lâu đã có các đế vương trị vì”. Nhà Hồ (1400 - 1407) đổi quốc hiệu là Đại Ngu (sự yên vui lớn), nhưng đa số dân chúng vẫn gọi Đại Việt, còn người Trung Quốc gọi Giao Chỉ. Thế kỷ XV, trong "Dư địa chí”, Nguyễn Trãi có viết: "Vua đầu tiên là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam làm tổ Bách Việt", nhưng trong "Bình Ngô đại cáo" ông lại viết: "Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu". Đến đời Gia Long (trị vì năm 1802 - 1820), dù đã chính thức có quốc hiệu là Việt Nam nhưng một bộ phận dân chúng vẫn quen gọi Đại Việt, còn người Trung Quốc và phương Tây thường gọi là An Nam.

Sau khi lên nối ngôi vua Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu là Đại Nam (cuối năm 1838), cái tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết "Việt Nam vong quốc sử" (năm 1905) rồi cùng Cường Để thành lập Việt Nam Công hiến hội (1908), Việt Nam Quang phục hội (1912); Phan Châu Trinh viết "Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam" (1914), Trần Trọng Kim viết "Việt Nam sử lược" (1919); Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội (1925) và Việt Nam Độc lập Đồng minh hội (1941)...

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Đại. Vua Bảo Đại đổi lại quốc hiệu từ Đại Nam thành Việt Nam. Ngày 19-8-1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc "Tuyên ngôn Độc lập" khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa danh hiệu này. Từ đây, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất của nó.