Làm phong phú thêm công nghệ vận chuyển dầu

Kinh tế - Ngày đăng : 07:19, 09/12/2016

(HNM) - Công trình “Nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện công nghệ thu gom, xử lý, vận chuyển dầu thô trong điều kiện đặc thù của các mỏ Liên doanh Vietsovpetro và các mỏ kết nối trên thềm lục địa Nam Việt Nam”, do TS Từ Thành Nghĩa và 29 cộng sự thực hiện, là một trong 9 công trình được lựa chọn xét tặng

Sử dụng công nghệ vận chuyển dầu khí bằng đường ống, góp phần tăng hiệu quả khai thác dầu khí ở Việt Nam.



Vượt khó để nghiên cứu

TS Từ Thành Nghĩa, Tổng Giám đốc Liên doanh Vietsovpetro cho biết, công trình ra đời trong hoàn cảnh đất nước bị ảnh hưởng bởi cấm vận, kinh tế khó khăn. Khả năng cập nhật và tiếp cận thông tin và công nghệ tiên tiến của thế giới còn hạn chế, ít tài liệu, thiếu thiết bị thí nghiệm hiện đại trong nghiên cứu, mọi thứ đều cần sự hỗ trợ của Liên Xô (cũ). Trong khi đó, các nguồn kinh phí đều phải tự chủ. Để bảo đảm dòng dầu được khai thác liên tục ở những năm đầu tiên, Vietsovpetro phải dùng cả những vật liệu phi truyền thống để xử lý dầu, phục vụ vận chuyển bằng đường ống không bọc cách nhiệt. Thậm chí, các cán bộ kỹ thuật của Vietsovpetro đã phải dùng những vật dụng hằng ngày trong sinh hoạt để chế thành thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu, thí nghiệm.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn đó, các tác giả đã nghiên cứu, xây dựng và áp dụng thành công công nghệ vận chuyển dầu nhiều parafin bằng đường ống ngầm ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam với tổ hợp các giải pháp công nghệ đa dạng, có sự khác biệt so với công nghệ truyền thống của thế giới. Đến thời điểm hiện nay, trải qua hơn 30 năm khai thác dầu ngoài khơi, Vietsovpetro vẫn luôn bảo đảm dòng dầu chảy liên tục cho đất nước. Thành quả đó có được nhờ một phần không nhỏ của công tác nghiên cứu khoa học.

Theo ông Nguyễn Hoài Vũ, một trong các tác giả tham gia thực hiện công trình, điểm mới của công trình nghiên cứu này là đã đưa ra được giải pháp sử dụng hóa phẩm dùng trong dung dịch khoan để xử lý dầu và vận chuyển thành công bằng đường ống không bọc tách nhiệt từ giàn cố định đến tàu chứa xuất dầu. Bên cạnh đó, công trình đã hình thành công nghệ vận chuyển dầu và khí bằng đường ống ở điều kiện nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ đông đặc của dầu, đã làm thay đổi căn bản công nghệ truyền thống vận chuyển dầu nhiều parafin bằng đường ống ở điều kiện ngoài khơi.

Công trình có 2 bằng sáng chế độc quyền đã được cấp, 31 bài báo được in trên các tạp chí trong nước và 32 bài trên các tạp chí quốc tế, 2 cuốn sách khoa học kỹ thuật chuyên khảo được xuất bản, 4 luận án tiến sĩ và tiến sĩ khoa học đã được bảo vệ.

Hiệu quả kinh tế lớn

Theo đánh giá của Hội đồng xét duyệt Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH-CN, công trình đã làm thay đổi hoàn toàn quan điểm thiết kế hệ thống công nghệ theo Đề án 16716 của Liên Xô (cũ), thay đổi cấu hình phát triển mỏ; đặt cơ sở cho việc vận hành an toàn các mỏ Bạch Hổ, Rồng, sau khi phương án vận chuyển dầu về Thành Tuy Hạ không khả thi và đường ống vận chuyển dầu trong nội mỏ tắc nghẽn do lắng đọng parafin nghiêm trọng. Công trình còn là tiền đề để đưa nhiều mỏ khác ở bể Cửu Long vào khai thác dựa trên nền tảng mô hình kết nối các mỏ nhỏ, mỏ cận biên. Hiệu quả kinh tế trực tiếp của cụm công trình đến hết năm 2014 là 779,7 triệu USD. Trong đó, chi phí vận hành mỗi năm giảm 7,9 triệu USD. Hiệu quả này vẫn được duy trì trong suốt quá trình vận hành, khai thác mỏ.

Trong điều kiện đất nước bị cấm vận, công trình đã góp phần phát triển Ngành Công nghiệp khai thác dầu khí ở Việt Nam với việc đưa mỏ Bạch Hổ vào khai thác vào năm 1986, mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể, tạo ra sản phẩm mới cho đất nước, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu dầu. Nguồn thu ngoại tệ kịp thời của Vietsovpetro đã giúp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Nếu không áp dụng tổ hợp công nghệ này thì khó có thể đưa mỏ Bạch Hổ vào khai thác nhanh chóng vào năm 1986 như đã thực hiện.

Các kết quả nghiên cứu sẽ được tiếp tục áp dụng trong tương lai, tạo cơ hội cho đầu tư, phát triển Ngành Dầu khí, đặc biệt là cho việc phát triển các mỏ liên kết, mỏ cận biên và mỏ nhỏ. Công trình cũng đã giúp đào tạo nên đội ngũ chuyên gia kỹ thuật về khai thác dầu khí và các nhà quản lý cho Ngành Dầu khí Việt Nam, phục vụ phát triển kinh tế biển, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Ánh Tuyết