Lúng túng khi luật chưa thống nhất
Đời sống - Ngày đăng : 07:56, 31/12/2016
Chọn hướng đi nào?
Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: "Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác". Theo đó, “luật khác” ở đây là pháp luật chuyên ngành, gồm Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 và Luật các TCTD 2010. Như vậy, Bộ luật Dân sự đã loại trừ việc áp dụng mức trần lãi suất vay 20%/năm đối với hoạt động cho vay của các TCTD, lúc đó pháp luật về tín dụng, ngân hàng sẽ cho phép các bên trong quan hệ tín dụng là TCTD và khách hàng được tự thỏa thuận.
Khách giao dịch tại Ngân hàng Quốc tế (VIB). Ảnh: Thanh Hải |
Tuy nhiên, vướng mắc phát sinh ở chỗ, Khoản 2, Điều 91 Luật các TCTD 2010 mặc dù nêu rõ lãi suất trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD theo cơ chế thỏa thuận nhưng “theo quy định của pháp luật”. Việc ghi thêm cụm từ này khiến cả bên vay, bên cho vay và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật lúng túng không biết theo pháp luật về tín dụng ngân hàng (không áp dụng trần lãi suất cho vay) hay theo pháp luật dân sự (áp dụng trần lãi suất cho vay, trừ một số trường hợp như nêu trên).
Về vấn đề này TS Bùi Quang Tín (Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh) khẳng định, để không biến lãi suất trần trở thành công cụ pháp lý hành chính hóa quan hệ dân sự, bảo đảm tính linh hoạt phù hợp với các quan hệ vay tài sản đa dạng, có thể được sửa đổi, bổ sung kịp thời để đáp ứng yêu cầu của những biến động về kinh tế - xã hội, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định mang tính linh hoạt theo hai cơ chế: Căn cứ vào tình hình thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh lãi suất theo đề nghị của Chính phủ; theo luật khác có liên quan quy định mức lãi suất riêng cho các quan hệ cho vay đặc thù. Trong trường hợp này, quy định tại Điều 91, Luật các TCTD 2010 nêu: TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống TCTD, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD.
Như vậy, có thể áp dụng theo hướng trên. Cần nói rõ rằng đây là quy định không chỉ dành riêng cho quan hệ tín dụng của các ngân hàng thương mại mà còn có thể áp dụng cho loại vay đặc thù khác như vay chính sách xã hội, vay đầu tư phát triển, vàng, ngoại tệ... nếu Nhà nước xét thấy cần điều chỉnh các quan hệ vay này bằng cơ chế lãi suất riêng.
Cần sửa luật chuyên ngành
Mặc dù vậy, trao đổi với phóng viên Báo Hànộimới, một số thẩm phán vẫn cho rằng, Luật các TCTD hiện hành cho phép TCTD và khách hàng của mình thỏa thuận về lãi suất trong hợp đồng tín dụng song lại giới hạn “theo quy định của pháp luật” là “lòng vòng”, “luẩn quẩn”, “mua dây buộc mình”. Hợp đồng vay tài sản nói chung, hợp đồng tín dụng nói riêng là một loại giao dịch dân sự.
Theo quy định hiện hành, tất cả các quan hệ dân sự chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự mà không có quy định chi tiết xử lý mối quan hệ giữa Bộ luật Dân sự và các luật chuyên ngành. Do đó, việc điều chỉnh quan hệ này phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và các nguyên tắc về giới hạn thực hiện quyền dân sự được quy định trong Bộ luật Dân sự.
Vì vậy, để tránh nhiều cách hiểu khác nhau, trước mắt các cơ quan chức năng như Ủy ban Thường vụ Quốc hội, TAND Tối cao, Ngân hàng Nhà nước... cần có các văn bản giải thích luật, cũng như ban hành các thông tư hướng dẫn để TCTD và khách hàng có căn cứ thực hiện thống nhất. Về lâu dài, luật sư Trương Thanh Đức - Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế Hiệp hội Ngân hàng khẳng định, Luật các TCTD 2010 cần sửa đổi theo hướng không quy chiếu ngược trở lại với Bộ luật Dân sự nhằm tránh xảy ra tình trạng lòng vòng, không rõ ràng trong các quy định của pháp luật, tránh các rủi ro pháp lý có thể phát sinh.