“Ứng dụng giá trị di sản Hán Nôm trong đời sống hiện đại, tại sao không!”
Văn hóa - Ngày đăng : 08:41, 03/04/2005
GS.TS Ngô Thanh Nhàn (phải) cùng GS Hoàng Phê
GS, TS Ngô Thanh Nhàn sinh năm 1948 tại Sài Gòn, hiện đang định cư tại Mỹ, là giảng viên Viện các khoa học toán, Đại học New York. Ông là sáng lập viên, ủy viên BCHTƯ Hội Việt kiều yêu nước tại Mỹ, Phó Chủ tịch Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm, một tổ chức phi lợi nhuận tại bang Florida, đồng thời là thành viên Ban Giám đốc Viện Văn hoá và Giáo dục Việt Nam, cũng là một tổ chức phi lợi nhuận (ở New York). Chữ Hán Nôm chỉ là một trong những trọng tâm của lĩnh vực ngôn ngữ nói chung mà ông nghiên cứu.
- Theo quan điểm cá nhân ông, có thể khai thác gì từ kho tàng Hán Nôm để ứng dụng vào đời sống hiện nay? Nói cách khác, một tử ngữ như chữ Hán Nôm còn những giá trị gì?
- Trong các văn bản thực dân Pháp để lại có nhiều quyết định cấm dùng chữ Hán Nôm vì cho rằng học, sử dụng chữ Nôm là lạc hậu. Điều này không đúng, thực tế ở Trung Quốc, Nhật Bản, CHDCND Triều Tiên và Xin- ga- po đã chứng tỏ như vậy.
Cho đến năm 1920, chữ Hán Nôm đã có địa vị là quốc ngữ trong suốt 10 thế kỷ. Ông cha sáng tác văn học, ghi chép, làm sử đều bằng chữ Hán Nôm. Chính vì thế, các tài liệu, di vật có chữ Hán Nôm hết sức cần thiết và hữu ích trong đời sống hiện nay, có thể tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Ví dụ, ghi chép về cây cỏ, thổ nhưỡng... trong các tư liệu bằng chữ Hán Nôm cực kỳ quan trọng, đặc biệt khi nước ta chưa có khả năng vẽ lại bản đồ địa chất. Hoặc rất nhiều tư liệu ghi chép về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa khi các vị vua, chúa ngày xưa từng ra đó và ghi lại trong các thư tịch Hán Nôm. Những kiến thức y học, đời sống xã hội... cũng được ghi bằng chữ Hán Nôm mà lịch sử ít nhiều không bao quát được hết... Nói cách khác, có thể coi kho tàng Hán Nôm như bộ sử không chính thức của dân tộc. Về mặt bảo tàng, hiểu được chữ Hán Nôm ghi trên các vật thể còn làm tăng thêm giá trị di tích, không chỉ về khía cạnh kinh tế mà cả văn hoá, tâm lý- chúng làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc.
Một trong những đóng góp lớn của GS, TS Ngô Thanh Nhàn trong bảo tồn di sản chữ Nôm là xây dựng được bảng mã chữ thuần Nôm (năm 1992) để nộp cho tập đoàn Unicode & ISO 10646. Một loạt công trình quan trọng khác của ông trong lĩnh vực ngôn ngữ nói chung, chữ Hán Nôm nói riêng là chuẩn mã chữ quốc ngữ, Nôm và Chàm trên máy tính; các giải pháp giải quyết chữ Nôm trên máy tính với tập đoàn Unicode ISO 10646; chuyển đổi, mã hóa chữ Nôm, tiếng Việt trên máy tính... Ông cũng là đồng chủ tịch phần mềm phông chữ Nôm (Nôm Na font design and Production) và soạn giả phần chữ Nôm tập Thơ Hồ Xuân Hương (do nhà thơ Mỹ John Balagan dịch sang tiếng Anh, NXB Copper Canyon Press, Mỹ). Ông cho biết thêm:
- Bảo tồn di sản Hán Nôm phải mang tính quốc tế. Đó là con đường ngắn nhất, rẻ nhất bảo vệ tài sản chúng ta có trong tay, đóng cửa cất vào kho là mất. Phải đưa chữ Nôm vào chương trình mã hóa đa ngữ quốc tế, nghĩa là mỗi chữ Nôm phải có một mã riêng cho nó trên toàn thế giới. Nhiều phần mềm đã được sử dụng để vẽ, cho mã, in ấn, bàn phím cho chữ Hán Nôm. Chữ Hán Nôm không những có thể thể hiện trên máy PC mà còn hiện ra trên máy Apple và Linux. Chúng ta không thể làm một mình mà đạt kết quả nhanh như thế.
- Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương là những tác phẩm văn học Việt Nam bằng chữ Nôm đầu tiên được dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Mỹ. Thưa ông, đến nay có thêm những tác phẩm bằng chữ Hán Nôm nào được giới thiệu tới bạn đọc Mỹ?
- Tôi thấy có thêm Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Quốc âm thi tập, thơ của Lê Thánh Tông... Có lẽ chúng ta cần khuyến khích hơn nữa việc dịch thuật các tác phẩm lớn của nước ta nói chung, các tác phẩm bằng chữ Hán Nôm nói riêng sang tiếng Anh. Hiện nay, ngoài hai nhà thơ Mỹ John Balagan, Virginia Jingyi Shih, còn có thêm một số sinh viên Mỹ được học bổng học chữ Nôm của Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm tham gia công việc này.
- Khả năng chữ Hán Nôm không còn bị coi là tử ngữ với đông đảo người dân liệu có quá xa vời và hơi ảo tưởng, xét ở khía cạnh ngôn ngữ học?
- Vì chữ Hán Nôm bị quên lãng gần 100 năm nên sự hiểu biết trong toàn xã hội còn ít. Nguy cơ mất mát di sản Hán Nôm là có thật nhưng chúng ta hoàn toàn có khả năng làm chậm lại quá trình này. Chữ Hán Nôm không khó học như ta tưởng. Những người học những ngành tạm gọi là “Việt Nam học” như văn hóa, văn học, khảo cổ... cần phải biết chữ Hán Nôm. Theo tôi, cần phải có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các chuyên gia chữ Nôm, cho học bổng chữ Nôm, đào tạo một loạt tiến sĩ có trình độ...
Hiện tại, GS, TS Ngô Thanh Nhàn đang chuẩn bị hàng loạt dự án mới như: Hội nghị quốc tế về chữ Nôm; Nhóm “Nôm Na” (Hà Nội) vẽ phông, làm mã chữ Nôm; trao học bổng chữ Nôm cho sinh viên tại Huế, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh; cấp học bổng tiến sĩ cho sinh viên Mỹ học chữ Nôm; hỗ trợ phát hành tự điển Giúp đọc Nôm và Hán Việt; phổ biến kho chữ Nôm cho học giả Nôm sử dụng miễn phí, phát triển sử dụng mạng chữ Nôm...
- Thưa GS, đâu là ưu điểm, nhược điểm của các chuyên gia cũng như phương pháp bảo tồn chữ Nôm trong nước?
- Chữ Hán Nôm là di sản văn hóa phi vật thể nhưng tôi nhận thấy rằng số chuyên viên ngành văn hóa, chủ yếu là chuyên viên bảo tồn, bảo tàng, biết và sử dụng được còn ít. Số chuyên gia ngành Hán Nôm lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ưu điểm là ngành văn hóa đã đề ra được chương trình đúng điểm đối với khôi phục, bảo tồn chữ Hán Nôm, nhược điểm là thiếu điều kiện, thiếu tài chính triển khai. Theo tôi, chữ Nôm cần tiếp tục được mã hóa cho đầy đủ. Tổng cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng (Bộ Khoa học- Công nghệ) trước đây đã làm được hai bộ chuẩn quốc gia, đó là ưu điểm. Trong năm nay, chúng ta cần làm thêm một bộ chuẩn quốc gia nữa cho chữ Nôm để giúp các chuyên gia, học sinh, sinh viên trao đổi. Đây là việc cần kíp, tôi mong Tổng cục Tiêu chuẩn, Đo lường, Chất lượng khởi sự ngay.
- Xin cảm ơn GS!
HNM