Mạch nguồn giếng Ngọc
Xã hội - Ngày đăng : 08:11, 29/03/2005
Sau khi hành lễ, vua và các quan lang họp bàn việc nước trên một bãi đất bằng ở lưng chừng núi (đền Trung bây giờ). Các công chúa và gia nhân cùng nhau vãng cảnh - khi đến thung lũng phía Đông Nam núi Nghĩa Lĩnh, công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoadừng chân bên một vũng nước trong, nhìn xuống mây trời in đáy nước, hai công chúa thấy dung nhan của mình trên nền mây xanh, mây trắng... bèn lấy lược ra chải tóc, chít sửa lại khăn, áo. Rồi múc nước uống thử, thấy mát lòng, mát dạ... hai công chúa cho là “của trời ban thưởng”. Từ đấy về sau, mỗi lần lên Nghĩa Lĩnh, Tiên Dung và Ngọc Hoa đều đến bên hồ nước trong như ngọc này để gội đầu, soi gương trang điểm... Sau này khi lập đền thờ Tiên Dung - Ngọc Hoa, người xưa đã chọn nơi có mạch nước thiêng này để xây và đặt tên là đền Giếng.
Sách giới thiệu khu di tích lịch sử Đền Hùng (in lần thứ 15 - Sở Văn hóa-Thông tin-Thể thao Phú Thọ - năm 2000) phần nói về Đền Giếng, tác giả Vũ Kim Biên chỉ viết vẻn vẹn có 4 dòng: “ở đây có giếng Ngọc của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con vua Hùng thứ 18, tương truyền giếng này hai nàng dùng rửa mặt, chải tóc chít khăn. Đền thờ hai công chúa làm trùm lên giếng”.
Dựa vào truyền thuyết và Ngọc phả Hùng Vương, chúng ta có thể hình dung ra giếng Ngọc cách đây hơn hai ngàn hai trăm năm trước. Theo địa hình địa mạo thì giếng Ngọc là điểm tụ thủy của nước trời (mưa) - thuật ngữ địa chất gọi là nước mặt (để phân biệt với nước ngầm ở dưới lòng đất). Nước mặt từ đỉnh núi Hùng theo sườn núi phía Đông Nam chảy xuống chân núi. Tuy chưa phải là điểm thấp nhất của dòng chảy nhưng ở đó có một hố trũng do nước bào mòn đá mà thành. Đáy hố là đá cứng và cuội sỏi (không có bùn, đất mềm) nên nước trong. Nếu vậy vũng nước nhỏ đó chỉ giữ được nước mặt của những trận mưa mùa hạ. Sau mưa ít lâu hoặc trời nắng hạn, kể cả mùa xuân mưa phùn, nước trong hố trũng nhỏ bé nay sẽ khô cạn. Nhưng trên thực tế, giếng Ngọc không bao giờ cạn kể cả những năm đại hạn. Từ ngày xây dựng đền Giếng, giếng Ngọc nằm trong đền, có mái che, nước mặt từ đỉnh Nghĩa Lĩnh theo các rãnh nước hai bên đền xuôi mãi ra ngoài ngã ba, ngã tư đường vào đền Hùng. Không còn nguồn bổ sung từ nước mặt mà giếng Ngọc vẫn không bao giờ cạn; ít ra là từ thế kỷ thứ XVII đến nay (từ hồi xây dựng đền Giếng) giếng Ngọc vẫn luôn có nước để con cháu các đời sau và khách thập phương hành hương về Đền Hùng có dịp soi gương và uống nước nhớ nguồn”...
Thăm dò lập bản đồ nước ngầm (địa chất thủy văn) vùng đất Tổ, một đội khoan nước ngầm của Đoàn Địa chất thủy văn số 62 đã khoan một số lỗ ở xung quanh núi Nghĩa Lĩnh, núi Vặn... gặp mạch nước ngầm trong tầng đá cổ - ở các độ sâu từ hai, ba chục đến 60m dưới mặt đất, những người tìm kiếm thăm dò nước ngầm đã phát hiện mạch nước ngầm có trữ lượng khá lớn. Một trong những lỗ khoan ở phía Tây Bắc Nghĩa Lĩnh cách hồ Lạc Long Quân chỉ vài trăm mét, nước ngầm đã tự phun lên khỏi mặt đất (không cần phải dùng đến bơm áp lực). Đây là loại nước mềm, sạch, có thể sử dụng để sinh hoạt (không cần phải xử lý). Theo phương cấu tạo địa chất của các nham thạch tầng cổ (địa tầng), mạch nước ngầm này chạy từ Đông Nam Nghĩa Lĩnh, qua lòng núi Hùng kéo về phía Tây Bắc, nơi có hồ Lạc Long Quân. Mạch nước ngầm này có quan hệ trực tiếp với mạch nước “lộ thiên” ở đền Giếng. Do cấu tạo địa chất và phương của dòng chảy (nước ngầm), nước giếng Ngọc và nước hồ Lạc Long Quân có chung một nguồn. Điều này giúp cắt nghĩa vì sao đáy giếng Ngọc ở thế cao hơn lòng hồ (ao) nhỏ trước cửa đền Giếng, mà khi nước ở các ao sen, hoa súng đã cạn khô mà nước giếng Ngọc vẫn không cạn.
HNM