Thiếu Lâm tự - Lịch sử và sự thật....
Giới trẻ - Ngày đăng : 15:21, 16/02/2005
Với bề dày lịch sử 1.500 năm, Thiếu Lâm tự - Trung Quốc là kho tàng võ công thâm hậu vang danh khắp thiên hạ. Các nhà nghiên cứu võ học trên thế giới đều phải thừa nhận rằng Thiếu Lâm tự là cội nguồn của nhiều môn phái.
Một chuyến đi về cái nôi võ thuật để tìm một chân dung thật về ngôi sao huyền thoại...
Kẻ tu học trên mạng!
Tôi lên mạng với lời rao: “Muốn đi đến chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc, ai biết chỉ giúp?”. Chỉ trong nửa ngày đã có hàng tá lời hồi đáp: đường đi nước bước đến Thiếu Lâm tự mỗi người mách bảo một phách, người thì bảo Thiếu Lâm tự ở Châu Nam, tỉnh Phúc Kiến; kẻ đoan chắc chân truyền kungfu ở Bàn Sơn, Hà Bắc; có kẻ lại bảo: “Anh cứ đến Cung văn hóa hữu nghị Hà Nội, ở đó dạy Thiếu Lâm tự Liễu Đôi - Hà Nam, chân truyền chính gốc, cần gì mò sang Tàu?” (!?).
Rối quá tôi lại rao: “Muốn đi tu chùa Thiếu Lâm chính gốc bên Trung Quốc, ai đã từng tu, muốn tu, sắp tu, xin liên hệ email nguyenbnus... xin hậu tạ!”. Hai ngày sau thư điện tử đã có hồi âm: “Em là Hưng, sinh viên Đại học Kinh tế quốc dân, từng sang chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Hà Nam, Trung Quốc hai lần, đầu tháng giêng em sẽ sang nhập học, nếu cần anh bay ra Hà Nội, em sẽ giúp...”. Tôi thu xếp bay ra Hà Nội ngay.
Hưng với thân hình đúng nhà võ - cao lớn, vai u thịt bắp, rất am hiểu Thiếu Lâm tự - kể cho tôi biết: Đúng là bên Tàu có đến ba ngôi chùa mang tên Thiếu Lâm, nhưng chính gốc chân truyền chỉ có một là Tung Sơn Thiếu Lâm tự ở thị trấn Đăng Phong, tỉnh Hà Nam.
Chính nơi này, năm 527 (sau Công nguyên) tổ sư Bồ Đề Đạt Ma - con vua Nam Thiên Trúc (miền nam Ấn Độ) đã lên đường vượt biển sang Trung Hoa và đến Tung Sơn, chọn động Thiếu Thất để tham thiền diện bích (nhìn vào vách đá) suốt chín năm liền.
Từ đó, ông đúc kết tinh yếu ra môn phái Thiếu Lâm tự với năm bộ sách bí truyền tuyệt thế võ công chấn động giang hồ và là nền tảng cho hầu hết các môn võ khác như Nga Mi, Không Động, Võ Đang, karatedo, taekwondo, judo, kiếm đạo Nhật Bản và cả Vovinam… cũng đều xem Bồ Đề Đạt Ma là thủy tổ.
Kungfu Trung Hoa hay võ Thiếu Lâm tự vang danh giới võ lâm giang hồ từ hơn ngàn năm qua bởi 72 tuyệt kỹ kungfu như thương đao bất nhập pháp (binh khí không thể chém vào người), bích hổ du tường công (leo tường), tù thủy công (chạy trên mặt nước), phi tiềm tẩu bích (chạy trên vách, bay trên mái)…
Đọc những bộ sách kiếm hiệp như Tiếu ngạo giang hồ, Ỷ Thiên Đồ Long ký , Thần điêu đại hiệp… tôi đã quá mê mẩn những thần công lực của các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm. Trong lịch sử Trung Hoa, dấu ấn các cao thủ chùa Thiếu Lâm cũng rực rỡ không kém.
Từ đời Đường, tuyệt đỉnh võ học Thiếu Lâm tự đã chấn động giang hồ khi 13 vị cao tăng chùa Thiếu Lâm giúp vua Đường Thái Tông phá trận Vương Thế Sung (mà vừa qua Đài truyền hình TP.HCM đã cho trình chiếu bộ phim nhiều tập San bằng Thiếu Lâm tự. Lịch sử võ học cũng lưu danh các cao tăng như Chí Tháo, Huệ Dương, Đàm Tông… đã đóng góp cho nền võ học thế giới những huyền công tuyệt kỹ.
Tinh hoa của Thiếu Lâm là võ đạo. Võ động, đạo tịnh - tinh thần Thiếu Lâm là mượn cái động để trở về cái tịnh. Các nhà nghiên cứu phương Tây cho đến giờ vẫn chưa khám phá hết kho tàng nội công và khí công của võ đạo. Đi đến chân truyền tuyệt kỹ của Thiếu Lâm tự là một con đường khổ ải. Các tiểu tăng thường được đưa vào chùa từ tuổi lên 5, lên 7, học từ tấn pháp, thân pháp, quyền pháp, cước pháp... rồi la hán quyền, mai hoa quyền.
Bước vào trung cao thì tùy vào thể trạng, nhỏ con thì luyện báo quyền, cao gầy thì hạc quyền, to cao thì long quyền... Không phải ai cũng có thể bước vào hàng cao thủ Thiếu Lâm, vì phải có căn duyên, phải đạt khí lực và nội lực thâm hậu mới có thể luyện tuyệt kỹ, bằng không sẽ phản đòn nội thương. Để đạt đến vô vi quyền (vô chiêu thắng hữu chiêu), dùng khí lực nuôi thao tác liên kết hệ thống thần kinh và huyệt đạo để dẫn khí lực ra chiêu thì mới gọi là thượng thừa, mới có thể gọi là Đạt Ma khí công…
Với một kẻ ngoại đạo như tôi, kho tàng võ thuật Thiếu Lâm tự quả như ngọn núi Thái Sơn mà mới một vài bài quyền của các tiểu tăng đánh võ như múa trong đoàn võ thuật Thiếu Lâm Tinh Anh - Bắc Kinh vừa qua Sài Gòn hồi tháng mười hai cũng đủ khiến tôi choáng ngợp...
Chuyến tàu tốc hành phương bắc
Đúng hẹn với Hưng, tôi vác balô ra Hà Nội. Vừa xuống sân bay trời lạnh 100C, nhưng cảm thấy lạnh hơn khi điện thoại cầm tay của Hưng “ò…í…e…”. Mới ngày hôm trước còn liên lạc, Hưng vẫn dặn: rét lắm đấy, hôm qua đài báo ở Bắc Kinh, Trịnh Châu lạnh đến âm 180C. Hưng còn dặn nên cạo đầu để bày tỏ lòng thành kính đối với các bậc cao tăng… Vậy mà…
Tiếng còi tàu tốc hành liên vận Hà Nội - Bắc Kinh trong đêm nghe sao não lòng. Kẻ tu học qua mạng vẫn biệt tăm, đường xa vạn dặm biết đâu mà lần, chẳng lẽ quay về? Nhưng tóc đã xuống, tâm đã tịnh, tiệc chia tay vợ con đã tàn... nào có thể thối lui?
“Gió hiu hiu sông Dịch lạnh tê, tráng sĩ ra đi chừ không trở về...”. Con tàu liên vận nối liền thủ đô hai nước phóng vào màn đêm hun hút, trên tàu chỉ có đúng 11 người VN - mùa này đang vào tiết đại hàn, người phương bắc ùn ùn kéo xuống phương nam chứ có ai ngược lên phương bắc!
Ông soát vé tàu ngạc nhiên hỏi đi hỏi lại nhiều lần khi biết tôi sẽ xuống ga Trịnh Châu - Hà Nam (cách Bắc Kinh 500km về phía nam) để đi Thiếu Lâm tự, bởi mùa này không ai đi viếng chùa Thiếu Lâm lại càng không thể tin là đi học võ, vì thời tiết năm nay vô cùng khắc nghiệt, trung bình cũng âm 100C, miền núi Tung Sơn luôn có bão tuyết.
Quả như lời ông soát vé nói, tàu chỉ mới đến Quế Lâm, bắc tỉnh Quảng Tây, giáp VN, tuyết đã rơi dày đặc; làng mạc, những cánh rừng phủ trắng một màu tuyết - hiện tượng này ngay chính người Trung Quốc cũng cho là khác thường, bởi vùng Hoa Nam cả 20 năm qua chưa có tuyết rơi!
Tàu vượt sông Trường Giang trong đêm tối, tôi tiếc là không có dịp để ngắm một trong những dòng sông lớn nhất Trung Hoa - nơi mà ngàn năm trước tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đã rời nước Lương để đến Thiếu Lâm tự của Bắc Ngụy chỉ bằng một cọng lau đạp nước qua sông (cước đạp lô điệp quá giang) để từ đó “cửu niên diện bích” (chín năm thiền mặt quay vào trong vách đá) trong động Thiếu Thất trở thành tỵ tổ của Thiếu Lâm võ công và sơ tổ Thiền tông Trung Hoa.
Tàu vào ga Trịnh Châu chỉ đỗ đúng năm phút cho hai người khách xuống: tôi và anh Kim Sơn - người phiên dịch. Trên tàu có lò sưởi nên chưa cảm thấy cái lạnh, vừa ra khỏi tàu đôi tai tôi gần như đóng băng (!), nhiệt độ bên ngoài âm 100C, nhưng khi lên xe đò về đến thị trấn Đăng Phong, cách Trịnh Châu 80km về phía đông bắc mới biết mình vẫn còn may mắn vì trước đó hai ngày một cơn bão tuyết đã ập vào Trịnh Châu, làm tắc nghẽn giao thông suốt hai ngày. Chuyến xe đò mà tôi đi về Đăng Phong là chuyến đầu tiên sau cơn bão tuyết!
Dãy Tung Sơn đang dần hiện ra, huyền thoại về tuyệt kỹ Thiếu Lâm tự đã ở sau lưng, trước mắt là một thế giới khác về Thiếu Lâm tự đang mở ra…
Phần 2: Chợ kungfu
Tôi cứ hình dung đó là một thị trấn cổ kính ngàn năm với những võ sinh đang luyện tập dưới bóng núi Tung Sơn, bởi trong tám kinh đô cổ của Trung Quốc thì tỉnh Hà Nam chiếm hết bốn - gồm An Dương, Lạc Dương, Khai Phong và mới đây là Trịnh Châu (1600 – 1100 trước Công nguyên). Thế nhưng tất cả đều tan biến ngay trong phút đầu gặp gỡ...
Công nghệ “chân truyền”!
Thị trấn Đăng Phong đang hối hả xây dựng, con đường cao tốc từ thành phố Trịnh Châu dẫn về Đăng Phong rộng sáu làn xe, dấu ấn duy nhất là bên sườn núi người ta cho tạc vào vách núi chân dung các vị cao tăng đang luyện khí công. Còn lại là hàng loạt tòa nhà cao tầng đang đua nhau vươn lên; nhà hàng, khách sạn ba sao, bốn sao vươn dài ra tới dãy Tung Sơn - nơi tọa lạc chùa Thiếu Lâm.
Tôi ngần ngại, nói muốn học cho đến nơi đến chốn để về nước mở lò dạy võ. Kỳ như biết quyết tâm của tôi: “Tôi bao tất, 10.000 tệ (khoảng 20 triệu tiền Việt Nam), có bằng do đệ tử chân truyền của phương trượng cấp, sang Mỹ còn mở trường dạy võ được huống hồ gì VN!”. Tôi dò hỏi: “Vậy học mấy tháng?”. Anh lái xe cho biết chỉ cần ba tháng là được, rồi anh vung tay múa quyền giống như mấy tiểu sư phụ trong đoàn Thiếu Lâm Tinh Anh!
Khắp Đăng Phong đâu đâu cũng có thể liên hệ vào học ở võ đường, Học viện Thiếu Lâm. Một bảng hiệu nhỏ như bảng hiệu “nhận giặt là” ở Hà Nội cũng được ghi “Thiên Long Thiếu Lâm võ đường”, hay một tòa nhà trên phố chỉ cao ba tầng cũng được chèo kéo vào giới thiệu là “Tiểu Long Thiếu Lâm học viện”...
Và chỉ cần lên taxi mà miệng bập bẹ với tài xế “Shao lin ssu…” là sẽ được chở ngay tới một “mối” luyện kungfu vô danh hoặc hữu danh nào đó mà ai cũng đoan chắc “chính hiệu chân truyền”; như một thời ở Hà Nội người ta tranh nhau chất “chân truyền” của các quán thịt chó trên đê Yên Phụ, nào là anh Tú xịn, anh Tú béo, anh Tú chính gốc...
Thậm chí có “cò” còn tuyên bố sẵn sàng bảo kê cho tôi vào chùa tu, nhưng ban đêm có thể ra thị trấn ăn chơi, nhậu nhẹt đàn đúm - vì “cò” này bảo thanh niên trai tráng mà ở trong chùa thì hoạn sướng hơn!
Một anh cò có đôi mắt sắc như dao của Kinh Vô Mệnh rủ rỉ: “Chỗ tôi không cần phải học chi cho mệt, cứ đến ghi danh và tìm chỗ ăn ở cho thoải mái, tôi sẽ chạy cho tấm bằng chứng nhận đã tu luyện do chính đương kim phương trượng Vĩnh Tín ký và đóng dấu. Nhiều võ sinh từ Mỹ, Pháp sang cũng “học” theo cách này mà...”.
Ngụy phái hay chân truyền đều khó lòng phân biệt thì tôi còn biết tu học cửa nào đây?
Duyên phận!
Còn đang phân vân vì không biết thân phận sẽ trôi về chốn võ lâm nào giữa cái chợ võ ồn ào, náo nhiệt này, may mắn thay tôi lại bắt mối được với một người tự giới thiệu là Mã Hải Phong - thư ký riêng của một cao tăng đang tu tại chùa Thiếu Lâm.
Phong dáng đậm người, nói nói cười cười và có vẻ thật thà khi “thành thật khai báo”: “Tôi đâu biết võ, chỉ học lóm vài chiêu để phòng thân khi đi chợ, học võ mệt lắm, nhưng thầy của tôi chính gốc chân truyền!”.
Phong gọi taxi và đưa chúng tôi về một căn nhà nhỏ gần con đường cao tốc dẫn lên Thiếu Lâm tự. Căn phòng lạnh đến ghê người, chiếc cửa nhỏ bé được che bằng miếng cao su dày để chắn gió rét, phòng bên ngăn cách bằng một tấm kính tôi thấy có mấy chú nhỏ đầu cạo trọc đang hì hục tập võ mà tôi đoán là các tiểu võ tăng.
Ban đầu cứ nghĩ là mình đã bị lừa vào chốn tà phái, nhưng định thần nhìn quanh, với cách bài trí trong phòng, tôi thấy có thể yên tâm phần nào: nhiều bức ảnh treo trên tường là ảnh các vị lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc như Giang Trạch Dân, Chu Dung Cơ… chụp chung với các cao tăng, có những tấm trướng ghi thành tích của chủ nhân của nó và cả một dàn thập bát ban võ nghệ thương, đao, chùy, kiếm…
Mã Hải Phong hỏi tôi chỉ học võ hay cả đạo lẫn võ; nhu cầu ăn, ở, mua sắm trang phục loại nào, có đủ khả năng ở phòng riêng không, thời gian lưu lại tu học là bao nhiêu năm... và ghi chép rất cẩn thận vào sổ tay. Móc điện thoại di động nói chuyện khá lâu, rồi Phong quay sang tôi với gương mặt tươi tỉnh: “Đại sư phụ sẽ đến ngay, sẽ trao đổi trực tiếp với anh!”. Chỉ chưa đầy 30 phút, Mã Hải Phong mừng rỡ reo lên: “Cao tăng đến... Sư phụ đến...!”.
Một bóng người vén chiếc màn cao su nặng trịch bước vào, bóng tối bao trùm lấy căn phòng bởi tấm thân hộ pháp dễ gần trăm ký choán hết ánh sáng của cánh cửa nhỏ. Tôi bất chợt rùng mình, không phải vì tấm thân hộ pháp mà vì gương mặt con người ấy - gương mặt mà tôi đã gặp đâu đó, rất quen như là mới gặp trong cái thị trấn Đăng Phong nhỏ bé này…
Cao tăng ngồi đối diện và nhìn tôi rất lâu, ánh mắt nhỏ xíu nhưng đầy uy lực, ánh mắt của người có quyền lực, hỏi lại tôi những câu mà thư ký Mã Hải Phong đã hỏi, rồi lại nhìn tôi rất lâu và phán một câu: “Ngũ quan của anh rất tốt, anh đến với tôi là do duyên phận, tôi nhận anh làm đệ tử và cho phép gọi tôi là sư phụ!”.
Tôi cũng bất ngờ mừng vui, không vì lời khen tặng của sư phụ mà chính vì chợt nhớ ra ông chính là nhân vật cao cấp trong giới cao tăng Thiếu Lâm tự: hình ảnh của ông ở ngay trong căn phòng này, chụp chung với các nhà lãnh đạo Giang Trạch Dân, Chu Dung Cơ... Ở khách sạn, khu bán hàng lưu niệm trong thị trấn Tung Sơn hình ảnh của ông cũng được trưng bày khá nhiều trên các tờ bướm, tập bưu ảnh…
Thậm chí ảnh của sư phụ còn nhiều hơn cả phương trượng đại sư Vĩnh Tín - đương kim trụ trì Thiếu Lâm tự. Ngay cả quyển kỷ yếu Tung Sơn Thiếu Lâm tự võ tăng đoàn mà các cô nhân viên lễ tân khách sạn tặng khách cũng tràn ngập hình ảnh sư phụ… Duyên phận của tôi đã bắt đầu từ đây.
Không để đệ tử đợi lâu, như để chứng minh danh tánh “chân truyền đại sư”, sư phụ đưa ngay danh thiếp cho tôi: “Thích Diên Truyền - tổng giáo đầu võ tăng đoàn Tung Sơn Thiếu Lâm tự” - nhân vật cao cấp sau đại sư trụ trì phương trượng trong 180 cao tăng chùa Thiếu Lâm Tung Sơn!
Nói theo thư ký Mã Hải Phong thì: danh tiếng của ngài cũng giống như Quý Bố, danh tướng đời Tần mà trong giới giang hồ võ lâm vẫn truyền tụng: “Được ngàn lạng vàng không bằng một tiếng ừ của Quý Bố!”. Quý Bố vừa “ừ” với tôi kia rồi! Tôi như Trương Đan Phong vừa mở được “huyền công yếu quyết” để tìm ra nội công thượng thừa!
Tổng giáo đầu không vội đi sâu vào việc tu học, ngài phất tay ra lệnh cho tôi theo ngài ra ngoài. Tôi tuân theo, cứ tưởng sư phụ sẽ gọi taxi; nhưng không, sư phụ “tung chưởng” bấm remote - tiếng “ót ét” vang lên từ chiếc xe hơi riêng, tự ngài cầm lái và đưa tôi đi về hướng Thiếu Lâm tự...
Chuyện đời thật trái khoáy, ngày xưa có những hiệp khách đến quì lạy dưới mưa sa bão tuyết bảy ngày bảy đêm trước cổng chùa Thiếu Lâm để mong các cao tăng nhận vào làm đệ tử. Nay đệ tử vừa lặn lội từ đất phương nam xa xôi đến đây đã được đích thân sư phụ ưu ái đưa bằng xe hơi riêng lên thẳng nội cung Thiếu Lâm…
Phần 3: Trong "nội cung" Thiếu Lâm tự
Đường lên Thiếu Lâm tự bây giờ đã là cao tốc sáu làn xe và thay cho các tiểu tăng là hai ba vòng rào bảo vệ thu tiền vé khách thập phương vào vãn cảnh chùa...
Đây, Tàng Kinh Các!
Thiếu Lâm tự được vua Hiếu Văn Đế xây dựng vào năm Thái Hòa thứ 19 đời Bắc Ngụy (năm 495). Lịch sử ngôi chùa này cũng khá truân chuyên và đầy chất giang hồ hiệp khách như trong tiểu thuyết Kim Dung, đã từng là nơi tỉ thí võ nghệ của giới võ lâm và bị tàn phá nhiều lần trong các năm 556, 844, 962; bị cháy đến ba lần vào các năm 612, 1736, 1928; đây cũng là một trong những mục tiêu bị đập phá tàn bạo nhất của tỉnh Hà Nam bởi các hồng vệ binh trong “đại cách mạng văn hóa” thập niên 1960. Mãi đến cuối thập niên 1970 Thiếu Lâm tự mới được đại trùng tu để có diện mạo như hiện nay.
Sư phụ Thích Diên Truyền như muốn khẳng định “thương hiệu” của mình trước kẻ đệ tử hèn mọn phương nam nên khi vào cổng soát vé Thiếu Lâm tự, ngài cố tình lái xe vào đường ngược chiều (!?). Mấy anh bảo vệ chạy ra nhìn lom lom, sau khi biết đích xác là cao tăng đại sư liền xăng xái lùi vào và cười rất tươi - quả thật “ngoại công” của sư phụ vô cùng đắc địa! Ở ngay cổng tam quan chùa, anh bảo vệ cũng phải lùi bước khi ngài đưa tôi vào tham quan Thiên Hoàng Cung, Bảo Chánh Điện, Tàng Kinh Các…
Tôi ngẩn ngơ khi đứng trước Tàng Kinh Các - gian nhà cổ kính mà ngàn năm qua là nơi dòm ngó, đột nhập của bao thần thâu lục lâm (siêu trộm). Nơi lưu giữ các pho sách bí truyền nội công, khí công để luyện 72 tuyệt kỹ đều nằm ở đây. Trong lịch sử của giới võ lâm, mỗi khi Tàng Kinh Các bị đột nhập, xâm phạm, dù đó là kẻ thần thâu, hiệp khách hay đó là đấng quân tử, quân vương… đều làm cho giới giang hồ khuấy động, bao cảnh máu đổ đầu rơi vì đã chạm vào nơi đại trọng của các cao tăng Thiếu Lâm tự.
Tàng Kinh Các vẫn cổ kính như xưa, những chiếc tủ to chứa đựng bí quyết thâm hậu võ công vẫn ẩn mình sau lớp cửa. Một vị cao tăng đi tới đi lui lạnh lùng nhìn kẻ lạ phương nam. Một vị tiểu tăng ngồi co ro bên hữu môn vừa bán ít hàng lưu niệm như xâu chuỗi, tượng Phật, nhang đèn…cho khách thập phương, vừa đọc sách mà theo thư ký Mã Hải Phong thì đó là những võ tăng “thất sủng” được sư bác đưa ra làm “dịch vụ”.
Vị tiểu tăng bán hàng lưu niệm rất khó chịu khi tôi đưa máy ảnh lên chụp, vì đường đường là võ tăng chân truyền trong 180 vị cao tăng chùa Thiếu Lâm ngày đêm tu luyện tuyệt kỹ khí công mà lại bị xem như một người phàm, buôn bán mấy món lặt vặt sao? Thà được lưu danh như Lỗ Trí Thâm, xuất gia núi Ngũ Đài, ăn thịt chó, uống rượu mạnh ngang dọc chốn giang hồ vẫn còn hơn làm “ông chủ” hiệu dịch vụ Tàng Kinh Các!...
Dấu ấn đặc biệt, đáng xem nhất trong ngôi cổ tự này là cựu võ đường Thiên Phật tự, nơi có hơn 40 phiến đá nền bị lún sâu, còn in đậm những dấu chân ngàn năm của các thế hệ cao tăng luyện tuyệt kỹ La hán quyền, Mai hoa phong vũ quyền, Bài sơn chưởng, Nhất chỉ thiền công…
Còn ngoài sân, những cây bồ đề, cây tùng bách vẫn còn những vết lõm trên thân cây là dấu tích của các thế hệ Thiếu Lâm cao tăng luyện Trúc diệp thủ, Thiết tý công, Bao thụ công... Đó là dấu vết không thể chối cãi được của một pho bí truyền về nội công, khí công cao siêu dưới vòm trời võ học trần gian…
Phía sau cánh cửa thiền phòng...
Tiếng cầu kinh râm ran phía dưới điện Thiên Hoàng Cung, sư phụ đã biến mất từ lúc nào tôi cũng chẳng hay, chắc ngài đã dùng tuyệt kỹ “phi hành công” (phi thân) để lo việc chùa. Nhiều tiểu tăng trẻ tuổi từ khu thiền phòng lật đật cầm bát, tô, ca, cà mèn đi nhanh về phía tiếng kinh cầu, thì ra đã đến giờ các cao tăng đi dùng cơm trưa.
Tò mò muốn biết các cao tăng ăn những gì mà nội công quá thâm hậu, tôi cũng lò dò theo các tiểu tăng đến phòng cơm. Một thân hình hộ pháp trấn ngang trước cửa, xua đuổi như gặp tà, tôi thoáng thấy bóng sư phụ bên trong, ngài đang lim dim tụng kinh nên chẳng can thiệp gì cho tôi vào bên trong được.
Tiếng tụng kinh lắng dần và bắt đầu tiếng xì xồ, cười nói vui vẻ, những vị sư trẻ bước ra cười rất tươi, người trên tay bát cháo to ụ, người thì cà mèn mì đầy ắp, lại thêm hai, ba cái bánh bao kèm theo.
Thư ký Mã Hải Phong cho biết các sư phụ trong chùa Thiếu Lâm chỉ ăn chay và theo kiểu buffet mì, cháo, cơm, bánh bao, trứng luộc… ai thích ăn thứ gì thì tự chọn. Các cao tăng lớn tuổi ăn tại phòng ăn, còn các tiểu tăng thích tự do, thích riêng tư thì mang về thiền phòng.
Sư phụ tôi xuất hiện, tay ngài cũng cầm một bát cháo to, vừa đi vừa cười. Ngài cũng thuộc loại trẻ tuổi nên mang suất ăn trưa về phòng. Ngài hào phóng bảo thư ký Phong: “Đưa đệ tử xuống ăn cơm rồi về phòng riêng của thầy mà ngơi nghỉ, chiều mới bàn việc học ”.
Bụng đói cồn cào, một bát mì to không kém của thầy, dặm thêm hai cái trứng gà luộc mà vẫn còn thòm thèm, nhưng cảm thấy ngại vì xung quanh có khá nhiều người là khách của chùa cùng xuống ăn nên tôi bỏ đũa và líu ríu theo thư ký Phong về khu thiền phòng…
Tôi không thể hình dung thiền phòng - nơi ăn chốn ở riêng tư của các cao tăng thuở trước ra sao, nhưng thiền phòng thời nay là tòa nhà hai tầng khá hiện đại. Bước vào cửa là dãy hành lang tối om om với vài chiếc bóng đèn vàng vọt, nhưng vào bên trong thì phòng nào cũng được trang bị máy điều hòa hai chiều nóng - lạnh, máy điện thoại riêng và nhà vệ sinh riêng.
Bên ngoài cho dù giữa trưa nhưng vẫn là điều khổ ải trần thân vì giá lạnh đối với người phương nam quen nắng ấm quanh năm như tôi. Bước vào phòng của sư phụ quả là diễm phúc, máy sưởi chạy rù rì, chiếc giường nệm êm ru làm đệ tử díu mắt… Sư phụ tổng giáo đầu vừa ăn cháo, vừa viết thư pháp. Thầy viết khá đẹp, trên tường còn treo nhiều bức thư pháp lớn với nhiều nội dung về võ đạo.
Ăn xong thầy bảo tôi: cứ tự nhiên nghỉ ngơi, thầy có việc phải ra thị trấn độ một giờ sau sẽ quay lại. Thầy đi rồi, thư ký Mã Hải Phong và người phiên dịch nằm lăn quay ra ghế xalông mà ngáy. Tôi leo lên chiếc giường của cao tăng định đánh một giấc, nhưng “cơ hội ngàn năm” được vào thiền phòng các cao tăng nên lò dò đi tìm hiểu.
Có lẽ sư phụ tôi là tổng giáo đầu nên trong phòng ngài còn có máy vi tính nối mạng riêng, hai chiếc đại đao và thương to lớn dựng bên tường thuộc thập bát ban võ nghệ (18 món binh khí) của môn phái Thiếu Lâm dùng để luyện tập.
Trong chiếc tủ đứng của sư phụ có khá nhiều sách và kinh, tràng hạt và nhiều hình ảnh về những chuyến ra hải ngoại của sư phụ. Một khám phá khá thú vị là trong tủ của thầy có khá nhiều thuốc tây trị bệnh thông thường như cảm mạo, đau bụng...!
Cuộc sống của cao tăng Thiếu Lâm tự cũng thật phong phú và khá đời thường. Bên phòng của các cao tăng khác quần áo “dân sự” phơi phóng khắp nơi, nhiều cao tăng trẻ còn treo vài bộ đồ jean để khi cần có thể dạo phố. Nhiều võ tăng trẻ còn sắm cả dàn máy CD để nghe nhạc nhẹ, nhạc trữ tình!
Điều đặc biệt hơn là bên ngoài sân trước khu thiền phòng còn có khoảng vài chục chiếc xe hơi đủ loại, đủ kiểu, đủ màu sắc, không chỉ là xe của khách mà đa số là xe hơi riêng của các cao tăng trong chùa!
B.N (Tuổi trẻ)
(Còn tiếp)