Để tác phẩm lưu dấu trong đời sống
Văn hóa - Ngày đăng : 17:06, 30/01/2021
1. Giới văn học nghệ thuật (VHNT) Việt Nam, trong đó, đông đảo nhất là văn học, không xa lạ gì với khái niệm “giải thưởng”. Gần gũi thì có giải thưởng thường niên của hội VHNT địa phương, hay giải thưởng định kỳ cấp tỉnh/ thành phố thường là mang tên văn nhân làm rạng danh cho quê hương, như Giải thưởng Lưu Trọng Lư (Quảng Bình), Phan Ngọc Hiển (Cà Mau), Nguyễn Du (Hà Tĩnh), Nguyễn Quang Diêu (Đồng Tháp), Lê Quý Đôn (Thái Bình), Trương Hán Siêu (Ninh Bình)... Rộng hơn thì có giải thưởng khu vực (Giải thưởng Đồng bằng sông Cửu Long), giải thưởng bộ/ ngành, hội/ đoàn thể, báo/ tạp chí cấp Trung ương (Giải thưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Liên hiệp Các hội VHNT Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam, Giải thưởng Văn học tuổi 20, Giải thưởng Báo Văn nghệ, Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm, Tạp chí Văn nghệ Quân đội...). Lớn hơn nữa là Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Bên ngoài lãnh thổ thì có Giải thưởng văn học sông Mê Kông, Giải thưởng ASEAN... Và ở tầm vóc thế giới là giải Nobel.
Giải thưởng, đúng theo chức năng xã hội của nó, là kịp thời xướng tên, vinh danh những tác giả - tác phẩm xuất sắc tiêu biểu trong một thời đoạn nhất định, sau khi đã “đãi cát tìm vàng”, “so bó đũa chọn cột cờ” nhằm ghi nhận nỗ lực sáng tạo của một cá nhân, nhóm cá nhân hay một tập thể, đồng thời kích hoạt, lan tỏa năng lượng và cảm hứng sáng tạo nơi cộng đồng. Giải thưởng uy tín, chất lượng không chỉ làm “sáng giá” cho người/ nhóm người nhận giải, mà còn làm “sáng giá” cho cả tổ chức trao giải. Chẳng hạn, đã 30 năm trôi qua nhưng dư âm của Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 vẫn đầy sức vang vọng. Các tiểu thuyết được vinh danh năm ấy như “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, “Bến không chồng”... đã được tái bản nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, được dựng thành phim, và cho đến nay vẫn là niềm kiêu hãnh của giới văn chương khi nói về văn học dân tộc, cũng như nói về giải thưởng.
Đối với nhiều tác giả trẻ, giải thưởng chính là bảo chứng, là vé thông hành, là động lực, và cũng là áp lực giúp họ “vận công” để trường sức mà đi đường dài với văn chương. Văn nghiệp của Nguyễn Quang Thiều, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thúy... chính là được khởi dựng từ những mốc giải thưởng đầu mùa như thế.
2. Những năm gần đây, nhiều ý kiến cho rằng giải thưởng dường như ngày càng trở nên “mất giá”. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng trước hết là sự “khiêm tốn” về uy tín nghề nghiệp, sự dễ dãi của hội đồng trao giải. Chất lượng tác phẩm chỉ có thể định tính, không thể định lượng, mà định tính thì thường đi đôi với cảm tính. Chính cái sự “vô bằng cứ” này của văn chương đã khiến một số giải thưởng bị chi phối bởi những yếu tố phi nghệ thuật, ngoài văn chương. Có người sẽ phản biện, rằng quyết định trao giải thưởng là cả một hội đồng chứ đâu phải cá nhân nào, nhưng có lẽ đã tồn tại sự mặc cả, thỏa hiệp ngầm.
Hơn nữa, mỗi tác phẩm có thể lọt vào vòng chung kết thường do những vòng dưới gửi lên nên có thể xảy ra tình trạng vòng dưới không bao quát được hết cơ man tác giả - tác phẩm trong phạm vi quy định, và vòng trên cũng chưa chắc mỗi thành viên hội đồng đã đọc hết các tác phẩm được phía dưới tiến cử. Đã từng xảy ra tình trạng phải thu hồi giải thưởng, bởi scandal “đạo thơ” đã “nổ” ra ngay sau khi tác phẩm vừa được trao giải. Song, ngược lại, cũng có trường hợp như cuốn hồi ký “Gánh gánh gồng gồng” của tác giả Xuân Phượng vốn không nằm trong số sách được đề cử giải thưởng, đã được Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam kiếm tìm trong những cuốn sách bên ngoài đề cử và trao giải.
Thảng hoặc người ta lại cảm thán văn chương nước nhà năm nay “mất mùa” ở thể loại này kia, chẳng hạn như khi thấy giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam để trống hạng mục nào đó. Thực ra, “mùa” thì vẫn thế, năm nào cũng như năm nào, rất hiếm khi xảy ra đột biến, vấn đề là những người liên quan đến công tác trao giải có đủ sức bao quát hết “cánh đồng” văn chương dài rộng bộn bề hay không, và tập thể hội đồng có đủ công tâm, khách quan, trách nhiệm và sự thống nhất quan điểm hay không mà thôi. “Công” lớn nhất của giải thưởng lẽ ra là phát hiện, vinh danh một nhân tố mới mẻ, nội lực sung mãn, để thổi vào cánh đồng văn chương một làn gió trẻ trung, có sức truyền đẩy lớn. Thế nhưng, nhiều hội đồng trao giải lại thiếu cập nhật, thiếu đổi mới, thậm chí có xu hướng bảo thủ, già cỗi, mặc định. Cho nên, đã có những ý kiến cho rằng một số giải thưởng dường như “bài trẻ”, khi rất ít tác giả trẻ được xướng danh, được phát hiện. Hạng mục Lý luận phê bình của Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2020 chẳng hạn, tiếp tục vinh danh tác giả Nguyễn Văn Dân, sinh năm 1950, với tác phẩm “Văn hóa - văn học dưới góc nhìn liên không gian”; trong khi năm vừa qua đã nổi lên những cuốn sách cùng thể loại của các tác giả trẻ như Nguyễn Văn Hùng, Phan Tuấn Anh, Nguyễn Văn Thuấn, Đoàn Ánh Dương...
Đành rằng, việc của dân văn chương là viết, viết như một thôi thúc tự thân, chứ không phải viết để nhận giải thưởng. Nói như Cao Hành Kiện, quốc tịch của nhà văn là văn học. Nói như Lê Đạt, chữ bầu lên nhà thơ. Nói như Hồ Anh Thái, danh thiếp của nhà văn là tác phẩm. Thực tế là rất nhiều tác phẩm được hội đồng trao giải nào đó vinh danh, nhưng liền ngay sau đó trở nên vô danh, mất dấu. Người đọc và thời gian là “hội đồng” trao giải, phân hạng công minh nhất. Tuy nhiên, một tác phẩm nếu được giới chuyên môn và bạn đọc đương thời ghi nhận, lại được thời gian kiểm chứng, lại từng được nhận một giải thưởng uy tín, thì tầm vóc của tác phẩm đó càng được củng cố và khẳng định.
3. Bất chấp việc nhà văn và người đọc hứng thú hay bàng quan với giải thưởng, bất chấp “được giá” hay “mất giá”, thì giải thưởng vẫn cứ hiện diện như một sự tất yếu trong đời sống văn học, được chờ đợi và bàn tán. Ngay đến giải Nobel văn chương cũng không khỏi gây tranh cãi, ì xèo bởi khoảng cách tồn tại giữa đội ngũ văn chương chuyên nghiệp và công chúng. Quan trọng, cái được của giải thưởng là làm cho đời sống văn học có dịp mà rộn lên đôi thoáng. Chẳng hạn như về tác phẩm "Gió bụi đầy trời" của Thiên Sơn vừa được trao giải Ba Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 5 (2016 - 2019) của Hội Nhà văn Việt Nam, nhiều người tỏ ra ngạc nhiên vì một tác phẩm chưa “ổn” để được trao giải, trong khi PGS.TS Phạm Xuân Thạch lại cho rằng đây là tác phẩm lẽ ra phải được nhận giải Nhất, còn nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì chỉ ra rất nhiều “điểm trừ” của tác phẩm này. Nghĩ theo hướng tích cực, đôi khi chính những tranh luận này lại giúp tác phẩm có thêm tiếng tăm, được thêm nhiều bạn đọc biết đến.
Giải thưởng là “một miếng giữa làng”. Giải thưởng văn chương là sự định lượng hóa, vật chất hóa thứ vốn vô định lượng, phi vật chất, do đó, để giải thưởng văn học “được giá”, trước hết cần đến phẩm giá (lương tâm, tinh thần trách nhiệm, con mắt tinh tường...) của những thành viên hội đồng trao giải, sau nữa là cần đến sự giới thiệu, quảng bá, truyền thông tác phẩm đoạt giải đến đông đảo công chúng để tác phẩm không lặng lẽ ra đời, lặng lẽ được giải rồi lại lặng lẽ trôi đi trong đời sống hôm nay.