Xây dựng đất nước hùng cường, nhân dân có cuộc sống ấm no

Chính trị - Ngày đăng : 06:51, 30/01/2021

(HNM) - Như Báo Hànộimới đã đưa tin, trong hai ngày 27 và 28-1, 36 đại biểu đã phát biểu tham luận tại hội trường về các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Đại hội XIII) của Đảng. Các ý kiến đều bày tỏ sự nhất trí cao với các văn kiện Đại hội, đồng thời thể hiện quyết tâm của ngành, địa phương mình sớm đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc sống bằng những việc làm cụ thể; xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Báo Hànộimới xin tiếp tục trích giới thiệu một số tham luận tại Đại hội.

Các chiến sĩ Vùng 2 Hải quân trang trí pa nô chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Ảnh: TTXVN

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà:
Phát triển kinh tế tuần hoàn để nâng cao chất lượng tăng trưởng

Kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu thế tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh tài nguyên ngày càng suy thoái, cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu diễn biến khốc liệt. Xây dựng kinh tế tuần hoàn đã được xác định là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030. Kinh tế tuần hoàn không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên, mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế…

Đến nay, một số cơ chế, chính sách thúc đẩy kinh tế tuần hoàn đã được thể chế hóa trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Việt Nam đã có một số mô hình tiếp cận của kinh tế tuần hoàn như mô hình thu gom tái chế sắt vụn, thu gom tái chế giấy,… Trong nông nghiệp có mô hình vườn - ao - chuồng, vườn - rừng - ao - chuồng, thu hồi gas từ chất thải vật nuôi…; các mô hình sản xuất sạch hơn trong sản xuất công nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Mặc dù còn nhiều hạn chế, như còn gây ô nhiễm, nhưng các mô hình này cũng đã bước đầu tiếp cận với kinh tế tuần hoàn.

Để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ nâng cao nhận thức đến hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Ngay từ những năm đầu của thập niên 2021-2030, cần tập trung triển khai nhiều giải pháp để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn nhằm tận dụng những cơ hội hợp tác trong tiếp cận và tiếp nhận chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển bền vững đất nước. Trong đó, Nhà nước cần thực hiện tốt vai trò kiến tạo để doanh nghiệp, người dân phát huy vai trò trung tâm trong xây dựng, phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.

Tôi cho rằng, trước hết, cần xem phát triển kinh tế tuần hoàn là giải pháp tất yếu để nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm sản xuất và tiêu dùng bền vững; phân bổ, quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo việc làm... Qua đó, kiến nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) xem xét ban hành Nghị quyết về thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị, quán triệt các cấp ủy đảng, chính quyền; tăng cường tuyên truyền rộng rãi trong toàn xã hội về yêu cầu thực tiễn, vai trò, ý nghĩa, lợi ích và tầm quan trọng của phát triển kinh tế tuần hoàn, trong đó, cộng đồng doanh nghiệp và người dân đóng vai trò trung tâm. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề cấp bách toàn cầu. Phát triển kinh tế tuần hoàn là yêu cầu tất yếu của phát triển bền vững trong bối cảnh mới…

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng:
Tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động

Giai đoạn 2016-2020, lạm phát bình quân luôn được kiểm soát ở mức dưới 4%, theo đúng chỉ tiêu Quốc hội đề ra và thấp hơn nhiều so với mức bình quân của giai đoạn trước. Mặt bằng lãi suất tương đối ổn định, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giảm 2,5%/năm kể từ năm 2017 đến nay. Tính chung, mặt bằng lãi suất cho vay trong 5 năm qua giảm 3,7% so với giai đoạn 2011-2015; thị trường tiền tệ, ngoại hối, thị trường vàng cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao; tình trạng đô la hóa giảm dần, niềm tin vào đồng Việt Nam ngày càng nâng lên. Đây là những yếu tố củng cố niềm tin của nhà đầu tư, góp phần nâng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của nước ta.

Nhiệm kỳ 2021-2025 và những năm tiếp theo, tình hình thế giới dự kiến sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Trong bối cảnh đó, toàn hệ thống ngân hàng tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Trong đó, tiếp tục kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Cải thiện chất lượng đầu vào cho hoạch định chính sách, chủ động, thận trọng và linh hoạt điều hành các giải pháp và công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhất là chính sách tài khóa để ứng phó linh hoạt, tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động của kinh tế, tiền tệ thế giới; tăng dự trữ ngoại hối nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi.

Hệ thống ngân hàng tiếp tục thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau đại dịch Covid-19, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững; tín dụng mở rộng theo hướng tập trung vốn cho vay đối với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động. Tích cực triển khai các chương trình tín dụng, ưu đãi tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, khuyến khích phát triển các sản phẩm tín dụng đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân, đặc biệt là các đối tượng thu nhập thấp, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.

Ngân hàng Nhà nước cũng tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao; tập trung chỉ đạo cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống ngân hàng…

Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn:
Lấy châu Á - Thái Bình Dương là địa bàn đối ngoại trọng điểm chiến lược

Lời khẳng định của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là thực tế đã được thế giới thừa nhận. Từ một nền kinh tế lạc hậu, xếp hạng thấp trong số các quốc gia Đông Nam Á, nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN; giá trị thương hiệu quốc gia đứng ở vị trí thứ 33/100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới; chỉ số ảnh hưởng ngoại giao đứng thứ 9/26 ở khu vực châu Á và thứ 2 Đông Nam Á. Trong những thành tựu đó, đối ngoại Việt Nam, trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, đã có những đóng góp quan trọng. Thời gian tới, công tác đối ngoại phải phát huy vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; kiến tạo mọi điều kiện, huy động mọi nguồn lực và tranh thủ mọi cơ hội để phục vụ sự nghiệp phát triển và nâng cao vị thế của đất nước. 

Để làm được như vậy, cần tiếp tục đưa vào chiều sâu, tăng cường đan xen lợi ích và tin cậy chính trị với 30 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Trong đó, đặt phát triển vào vị trí trọng tâm của các mối quan hệ và lấy châu Á - Thái Bình Dương là địa bàn trọng điểm chiến lược; đồng thời thúc đẩy quan hệ với các đối tác tiềm năng ở các khu vực khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và nâng tầm đối ngoại đa phương; tham gia tích cực hơn vào định hình các thể chế đa phương như ASEAN, Liên hợp quốc, hợp tác Mê Kông…; kiên trì thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế; chủ động đề xuất các sáng kiến thiết thực, phù hợp với khả năng, lợi ích của đất nước và quan tâm của cộng đồng quốc tế. Cùng với đó là triển khai mạnh mẽ, đồng bộ và sáng tạo hơn nữa công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, tích cực nắm bắt các cơ hội to lớn về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, chuyển đổi số, phát triển xanh...

Đặc biệt, công tác đối ngoại kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; chủ động phòng ngừa và hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc đẩy đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và thượng tôn pháp luật…

Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương Nguyễn Hồng Lĩnh:
Lấy mục tiêu an dân trong các vấn đề chỉ đạo

Sau 35 năm đổi mới, thế và lực của đất nước đã lớn mạnh hơn nhiều cả về quy mô, sức cạnh tranh của nền kinh tế; kinh tế vĩ mô ổn định, các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đạt được nhiều thành tựu quan trọng; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Bên cạnh đó, thẳng thắn nhìn nhận nền kinh tế phát triển chưa bền vững; phân hóa giàu - nghèo trong nhân dân và giữa các vùng miền gia tăng, năng lực cạnh tranh hạn chế, năng suất lao động thấp... Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Trước đòi hỏi của thực tiễn, công tác vận động nhân dân càng phải chú trọng và đổi mới mạnh mẽ, xây dựng lòng dân hướng về Đảng, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức Đảng quan tâm một số nhiệm vụ, giải pháp.

Trong đó, tiếp tục đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ trương công tác dân vận của Đảng; đổi mới mạnh mẽ việc nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng theo hướng sát cơ sở, thực chất, hiệu quả hơn; đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” trong toàn hệ thống chính trị…      

Đặc biệt, cần nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cơ quan nhà nước các cấp, trọng tâm là: Hoàn thiện cơ chế và nâng cao vai trò tham gia của nhân dân trong quá trình quyết định chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những chính sách, pháp luật có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân; có chính sách sát, hợp với đặc điểm vùng miền, đặc thù của đời sống văn hóa người dân mỗi tỉnh nhằm tạo động lực, phát huy lợi thế và không tạo tâm lý ỷ lại trông chờ vào sự chăm lo, hỗ trợ của Chính phủ; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”… Các cấp chính quyền phải xây dựng đội ngũ cán bộ phụng sự xã hội, phục vụ nhân dân, lấy mục tiêu an dân trong các vấn đề chỉ đạo. Cùng với đó là thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; nghiên cứu, xây dựng Luật Thực hành dân chủ ở cơ sở…

Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp trung ương Y Thanh Hà Niê Kđăm:
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa

Đảng bộ Khối Doanh nghiệp trung ương gồm 35 đảng bộ các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng, đơn vị với 1.101 tổ chức cơ sở Đảng, 147 đảng bộ bộ phận, 5.606 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở, gần 82 nghìn đảng viên và hơn 720 nghìn người lao động trong các doanh nghiệp thuộc Khối. Đây đều là những doanh nghiệp có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế nước ta…

Đoàn đại biểu Đảng bộ Khối Doanh nghiệp trung ương nhất trí cao với nội dung các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đặc biệt là các quan điểm về doanh nghiệp nhà nước: “Tiếp tục thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung giữ vững những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế… Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa. Hình thành đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp, có trình độ cao”.

Ở Việt Nam, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước xuất phát từ lợi ích của đất nước, của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước phát huy tốt vai trò chủ đạo thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển nhanh, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu này là tạo cơ chế, chính sách để thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững. Chỉ khi đó mới nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong các lĩnh vực kinh tế then chốt, tạo điều kiện để phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Với truyền thống yêu nước, cách mạng, đoàn kết, dân chủ, năng động, sáng tạo, kỷ luật, kỷ cương, vị trí và tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhà nước cùng với sự lãnh đạo của Trung ương, sự hỗ trợ, phối hợp của các ban, bộ, ngành, các tỉnh, thành phố và sự giúp đỡ của bạn bè trong nước, quốc tế, Đảng bộ Khối Doanh nghiệp trung ương sẽ tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, phát huy mọi nguồn lực, quyết tâm xây dựng các doanh nghiệp, ngân hàng, đơn vị phát triển bền vững, giữ vững vị trí then chốt, dẫn dắt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, đóng góp tích cực xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Phan Văn Mãi:
Biến “nguy cơ, thách thức” của biến đổi khí hậu thành cơ hội

Việc xác định phương hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường có tính liên ngành, liên tỉnh và liên vùng trên cơ sở phát huy tiềm năng, thế mạnh của vùng, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm phát triển Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2050 trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước theo yêu cầu của Chính phủ là một nhiệm vụ to lớn, không chỉ giới hạn phạm vi trong vùng mà gắn với quy hoạch cấp quốc gia, đòi hỏi sự thống nhất, kết nối đồng bộ giữa các địa phương, ngành, lĩnh vực.

Trong giai đoạn 2021-2030 và các thời kỳ tiếp theo, Đồng bằng sông Cửu Long phát triển dựa trên khai thác tiềm năng, thế mạnh của kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển theo hướng đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách tiếp cận hiện đại, phù hợp với thực tiễn, lấy tri thức khoa học - công nghệ làm nền tảng. Các giải pháp đưa ra cần có tính đột phá, khả thi cao, mang tính kết nối nội vùng và liên vùng, có sự thống nhất, kế thừa các chủ trương, chính sách, các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được đề ra.

Cụ thể là xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long được đặt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Sự phát triển nông nghiệp sẽ tận dụng được tài nguyên sẵn có, đồng thời chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu qua việc kiểm soát nguồn nước ngọt, kiểm soát lũ. Nền nông nghiệp của vùng hiện vẫn đang nắm giữ rất nhiều sản phẩm ưa chuộng của thị trường thế giới với nhu cầu ngày càng tăng. Chuyển đổi sang nền kinh tế nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến có thể được xem là giải pháp khả thi và bền vững trong dài hạn. Ngoài ra, phát triển kinh tế sẽ được hỗ trợ bởi các mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp với du lịch sinh thái, trải nghiệm…

Cùng với xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, Đồng bằng sông Cửu Long cần tập trung phát triển kinh tế biển, từ kinh tế thủy sản (nuôi trồng, đánh bắt, chế biến) đến phát triển năng lượng sạch, công nghiệp, vận tải, du lịch, thương mại - dịch vụ, đô thị... trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Trong đó, định hướng phát triển năng lượng tái tạo ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long có thể xem là một chiến lược biến “nguy cơ, thách thức” của biến đổi khí hậu thành cơ hội phát triển bền vững. Đây là một không gian phát triển mới cần được quan tâm đầu tư để khu vực này thật sự hướng ra biển và giàu lên từ biển...

Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Giang Dương Văn Thái:
Phải hướng sản phẩm nông nghiệp tới thị trường toàn cầu

Đảng bộ tỉnh Bắc Giang qua các nhiệm kỳ luôn bám sát định hướng phát triển chung của cả nước, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện thực tiễn tại địa phương, tập trung phát triển đồng bộ trên cả 3 lĩnh vực: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; phát triển hài hòa trên cả 3 trụ cột (kinh tế, xã hội và môi trường) với mục tiêu xuyên suốt là xây dựng tỉnh Bắc Giang phát triển toàn diện, vững chắc. Nhờ có sự quyết liệt, kiên trì, linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nông nghiệp, những năm gần đây Bắc Giang không còn nỗi lo “được mùa, mất giá”. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp của tỉnh nhiệm kỳ qua đạt bình quân 2,5%/năm; đặc biệt là năm 2020 dù gặp ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, song nông nghiệp vẫn đạt mức tăng trưởng 6,7% (cao nhất trong nhiều năm trở lại đây). Giá trị sản xuất đạt 120 triệu đồng/1ha đất nông nghiệp, đem lại nguồn thu nhập ngày càng cao cho người dân.

Kết quả trên đem lại từ việc xác định đúng vai trò và có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nông nghiệp của tỉnh là minh chứng cụ thể về mối quan hệ biện chứng giữa “ý Đảng, lòng dân”. Nhân dân nói chung, nông dân Bắc Giang nói riêng luôn đoàn kết, phấn khởi, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng.

Từ thực tiễn chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp tại địa phương, tỉnh Bắc Giang rút ra bài học kinh nghiệm là cần làm tốt công tác quy hoạch phát triển các vùng sản xuất và định hướng phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng sinh thái để xây dựng các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, chất lượng. Trong quá trình đó, cần không ngừng đổi mới tư duy trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi từ tư duy sản xuất truyền thống, thủ công, nhỏ lẻ sang phát triển các mô hình sản xuất hàng hóa chuyên canh, tập trung, quy mô lớn, đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hướng tới thị trường toàn cầu. 

Để hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển, tỉnh Bắc Giang kiến nghị Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương xem xét, sửa Luật Đất đai theo hướng tích tụ, tập trung đất đai với quy mô lớn cho phù hợp với thực tiễn phát triển nông nghiệp hàng hóa hiện nay; tăng cường đàm phán thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông sản.

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Kon Tum A Pớt:
Giải quyết tốt vấn đề đất đai, môi trường cho vùng đồng bào dân tộc

Thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số, thời gian qua, tỉnh Kon Tum đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, bảo đảm quốc phòng, an ninh… đạt những kết quả quan trọng. Việc thực hiện các chính sách đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng toàn diện, có hiệu quả. Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm từ 23,03% năm 2016 xuống còn 10,12% đến cuối năm 2020; trong đó tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc thiểu số giảm từ 41,39% năm 2016 xuống còn 24,93% cuối năm 2020.

Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số khó khăn, hạn chế trong việc đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn…

Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tỉnh Kon Tum đề xuất một số giải pháp trọng tâm. Trước hết, cần tiếp tục phát huy khối đại đoàn kết các dân tộc, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho nhân dân các dân tộc thiểu số về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại, đặc biệt là các chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó góp phần làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào, làm cho bà con vươn lên thoát nghèo bền vững.

Bên cạnh đó, cần tập trung triển khai đồng bộ và huy động tối đa các nguồn lực đầu tư để lồng ghép thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó, tập trung thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030… Đặc biệt, phải giải quyết tốt vấn đề về đất đai và môi trường, bảo đảm 100% hộ đồng bào dân tộc thiểu số có đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường; có giải pháp thu hút đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo chuỗi liên kết, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích, hỗ trợ đồng bào ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất…

Thế Đan - Quốc Bình