Vẫn còn nhiều khó khăn trong sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP
Nông nghiệp - Ngày đăng : 06:50, 22/05/2023
Hiệu quả thiết thực
Theo ước tính của các hợp tác xã, thu nhập từ sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP đạt trung bình từ 470 đến 500 triệu đồng/ha/năm, nếu đầu ra thuận lợi. Đối với những cây trồng có giá trị cao như dâu tây, cà chua bi, rau baby… được đầu tư trồng trong hệ thống nhà kính, nhà lưới, thu nhập có thể lên tới 900 triệu đồng/ha/năm.
Huyện Đông Anh là địa phương đi đầu trong việc phát triển các hợp tác xã nông nghiệp sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Điển hình là Hợp tác xã Ba Chữ (xã Vân Nội). Được thành lập đầu năm 2016, đến nay, Hợp tác xã Ba Chữ có gần 200 thành viên, với 50ha diện tích trồng rau. Sản phẩm rau sạch của hợp tác xã đáp ứng tiêu chuẩn của các bếp ăn trường học, bày bán trong nhiều siêu thị.
Theo Giám đốc Hợp tác xã Ba Chữ Nguyễn Thị Huyền, hợp tác xã có nhiều sản phẩm đạt chứng nhận VietGAP và 10 sản phẩm đạt Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) 3 sao. Các sản phẩm đều được dán mã QR, tem, logo của hợp tác xã để người tiêu dùng có thể truy xuất nguồn gốc, bảo đảm đúng tiêu chí “An toàn từ ruộng, truy xuất tới hộ”. Từ đó, hợp tác xã có thể cạnh tranh giá trị sản phẩm trên thị trường và tăng doanh thu, thu nhập, đời sống của các thành viên được cải thiện đáng kể.
Còn theo Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp Hòa Bình (phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông) Trịnh Văn Vĩnh, nhờ việc thay đổi và định hướng tư duy trồng rau theo hướng VietGAP, sản phẩm rau an toàn của đơn vị được mở rộng diện tích và có thị trường tiêu thụ ổn định. Hiện tại, hợp tác xã đang sản xuất các loại rau, củ, quả: Súp lơ, bắp cải, su hào, ngót, cải, dền, cà chua, bầu, bí, mướp… cung cấp cho thị trường khoảng 640 tấn rau, củ, quả mỗi năm, với doanh thu gần 4 tỷ đồng/năm. Hợp tác xã thu hút 500 thành viên tham gia, với tổng diện tích sản xuất 53,8ha, trong đó có 11,7ha đạt tiêu chuẩn VietGAP. Từ năm 2019, hợp tác xã đã có 6 sản phẩm đạt chuẩn OCOP 3 sao.
Ông Nguyễn Hữu Trung, tổ dân phố 16, phường Yên Nghĩa (quận Hà Đông) cho biết, gia đình ông có 4 sào ruộng, trong đó có 1 sào canh tác theo quy trình VietGAP, còn lại là rau an toàn. Bình quân mỗi ngày, gia đình thu hoạch được 1 tạ rau, cho thu nhập khoảng 30 triệu đồng/tháng.
Nắm bắt khó khăn, xây dựng giải pháp
Theo Giám đốc Hợp tác xã Ba Chữ Nguyễn Thị Huyền, khó khăn lớn nhất của nông dân khi thực hiện mô hình VietGAP là vẫn còn những trường hợp bị tiểu thương, doanh nghiệp ép giá, khiến giá rau không ổn định. Mặt khác, nông sản VietGAP đưa vào tiêu thụ ở siêu thị không nhiều, phần lớn sản lượng rau phải tiêu thụ ở các chợ đầu mối, chợ dân sinh.
Còn theo Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngọc Hà (xã Xuân Giang, huyện Sóc Sơn) Nguyễn Văn Sinh, để có chứng nhận VietGAP, hợp tác xã phải hoàn thiện khoảng 65 tiêu chí. Chỉ riêng công đoạn lấy mẫu phân tích sản phẩm cũng mất ít nhất 3-4 ngày với điều kiện hợp tác xã trồng đồng nhất một loại rau màu, trên cùng một diện tích. Chính vì vậy, để sản xuất và duy trì chứng nhận VietGAP, các hợp tác xã phải chi phí khá lớn cho việc tư vấn, thuê tư vấn viên giám sát, phân tích, đánh giá mẫu đất, nước; tư vấn chứng nhận VietGAP, tái chứng nhận VietGAP… Trong khi đó, theo Thông tư số 48/2012/TT-BNNPTNT ngày 26-9-2012 của Bộ NN&PTNT quy định về chứng nhận sản phẩm thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi được sản xuất, sơ chế phù hợp với quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, thì chứng nhận VietGAP chỉ có thời hạn 2 năm.
Thực tế cho thấy, áp dụng quy trình VietGAP là điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã nâng cao những tiêu chí sản xuất và dễ dàng chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ… Song, để thúc đẩy phát triển các vùng trồng trọt theo hướng VietGAP, các cơ quan chức năng cần hỗ trợ hợp tác xã tiêu thụ nông sản; kết nối với siêu thị, doanh nghiệp chế biến nông sản… Ngoài ra, các địa phương cần đồng bộ cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân, hợp tác xã chuyển đổi vùng sản xuất truyền thống sang canh tác theo hướng VietGAP.
Về vấn đề này, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Hà Nội Nguyễn Tiến Phong cho rằng, Nhà nước cần đưa ra những chính sách và chương trình hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và đào tạo để giúp hợp tác xã nông nghiệp thực hiện tốt việc sản xuất an toàn. Đồng thời, cần có giải pháp thiết thực hơn trong việc kết nối, quản lý tiêu thụ nông sản an toàn, không chỉ qua các hệ thống phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện ích, mà cả ở chợ dân sinh, chợ đầu mối.