Hà Nội ngày 9-10 năm ấy...
Chính trị - Ngày đăng : 14:43, 06/10/2004
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, người Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Hà Nội nằm trong vùng tập kết 80 ngày đêm của quân đội Pháp rút quân. Ngày 9-10 những người lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội, “Bộ đội Cụ Hồ” trong đội hình những tổ công tác đặc biệt vào tiếp quản từng vị trí quan trọng và làm công tác chuẩn bị đón đoàn quân chiến thắng trở về...
Ban chấp hành Trung đoàn 102 sau ngày tiếp quản
Nửa thế kỷ đã trôi qua, những mái đầu xanh, những khuôn mặt rạng ngời của những người chiến thắng năm xưa nay đã bạc trắng nhưng bao kỷ niệm, ký ức đẹp về một thời oai hùng vẫn trào dâng mỗi dịp kỷ niệm ngày Thủ đô ta giải phóng. Những câu chuyện tưởng như rất đỗi giản dị, bình thường lại góp phần viết nên huyền thoại Việt Nam...
“Hùm xám” một thời... làm lính lê dương kinh hoàng.
Chủ căn hộ số 210 nhà B9 ngõ 22 phường Láng Hạ là một cụ già 83 tuổi nhưng vẫn khoẻ mạnh, minh mẫn và còn đang hăng say với công tác khối phố - Đó là ông Nguyễn Tiến Trang - nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 322 Trung đoàn 88 Đại Đoàn 308, người đã chỉ huy quân chặn đứng cuộc tấn công tiếp viện của Tiểu đoàn dù lính lê dương số 1 tại hẻm núi Cốc Xá (Cao Bằng) cuối năm 1950 góp phần vào thắng lợi chiến dịch Biên giới thu đông năm ấy và đã sắm vai Đại uý sĩ quan liên lạc Việt - Pháp giám sát việc bàn giao giữa Quân đội Pháp với Quân đội Việt Nam trước ngày tiếp quản Thủ đô năm 1954. Nhớ lại những ngày này của hơn 50 mươi năm trước, ông kể:
Cuối chiến dịch Biên giới năm 1950, tôi nhận lệnh dẫn đại đội bám theo cánh quân địch đang rút chạy. Chúng đi đến đâu vứt vỏ hộp, mẩu thuốc lá đến đó. Chúng vừa rút, vừa chờ quân tiếp viện. Qua mấy ngày, đến khu vực Cốc Xá (Cao Bằng), nhận thấy địa hình hiểm trở, tôi lệnh cho anh em bí mật leo lên đỉnh núi đánh vu hồi. Sáng ra dưới làn sương mờ, tôi bỗng thấy lố nhố cả tây đen, tây trắng đang tập trung đầy dưới lưng chừng núi. Ta ở trên đỉnh núi, chúng ở lưng chừng, phía dưới là vực sâu và khe suối. Tôi lệnh cho anh em ném lựu đạn cấp tập vào khu vực chúng đang tập trung, súng bắn từ trên cao xuống diệt từng tên địch. Đám tàn quân hôm trước đóng ở phía bên kia hoảng loạn tháo chạy. Thế là đại đội của chúng tôi đã đánh tan 1 tiểu đoàn lính dù lê dương vừa đến để tiếp viện cho đám quân hôm trước mà chúng tôi đang bám theo. Trận đánh đó đã được ghi nhận cách đánh vận động thành công nhất trong chiến dịch Thu Đông.
Cuối năm 1952 tôi được điều sang làm tiểu đoàn phó rồi lên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 39 (tiểu đoàn chủ công của Trung đoàn 88) tham gia đánh trận Nghĩa Lộ. Tôi bị thương ở Mường Lụm (Sơn la) nhưng vẫn tiếp tục rèn quân, luyện cán để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ tôi vinh dự được dự lễ tổng kết ở Đại Từ - Thái Nguyên, được Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi.
Đúng lúc này Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, chúng tôi không trở lại đơn vị chiến đấu nữa mà nhận nhiệm vụ mới: Học chính trị, học tất cả cách ứng xử, sử dụng điện, nước và đồ dùng gia dụng của người Hà Nội để chuẩn bị vào tiếp quản Thủ đô. Uỷ ban quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định Giơ ne vơ được thành lập ở Đồi Thông gần sân vận động thị xã Thái Nguyên. Tôi được sắm vai Đại uý sĩ quan liên kiểm Việt Pháp và đồng chí Trần Vỹ (nguyên Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội) sắm vai Đại tá chỉ huy (Vì lúc đó ta chưa phong quân hàm).
Đầu tháng 9-1954, đoàn chúng tôi khoảng hơn 20 người đi trên 4 chiếc xe vào Hà Nội, phía Pháp đón ta theo đúng nghi thức quân đội. Chúng tôi đóng tại Nhà thương Đồn Thuỷ (Viện Quân y 108). Sáng ra, xuống sân bay Bạch Mai làm việc, đấu tranh không cho chúng phá, tháo máy móc đem đi hoặc cài mìn, nguỵ quân ở lại...
Ngày đó có một tin mật báo: quân Pháp cài lại 1 trung đoàn nguỵ quân được trang bị vũ khí đầy đủ thuộc khu vực Thanh Trì. Mấy ngày sau chúng tôi được lệnh di chuyển ra Lĩnh Nam vừa để xác minh thông tin trên vừa gần Trung ương để kịp thời chỉ đạo Đại đoàn 308, thống nhất thứ tự tiếp nhận từng địa điểm.
Tôi đi cùng với 1 viên đại uý sĩ quan Pháp và 1 thiếu uý phiên dịch trên chiếc xe Jép đến từng vị trí: Nhà thương Đồn Thuỷ, Bến cảng Phà Đen (căn cứ Hải quân của Pháp), Nhà riêng của viên thiếu tướng Tổng chỉ huy Miền Bắc... Lúc này nhà thương không còn bệnh nhân nào cả, cảng Phà Đen cũng không có một con tầu nào, tư dinh của thiếu tướng cũng trống không, họ đã di tản cả rồi. Những người lính Pháp còn lại thì im lặng cúi đầu, không một phản ứng nhỏ nào chống đối.
Tôi được phân công phụ trách giám sát việc tiếp quản từ chợ Mơ, dọc theo hai bên đường Bạch Mai lên phố Huế, Hàng Bài đến Bờ Hồ qua Hàng Ngang, Hàng Đào, Bốt Hàng Đậu ra đến đầu cầu Long Biên và tiễn những người lính Pháp cuối cùng qua cầu rút sang Gia Lâm chiều muộn ngày 9/10/1954.
Hà Nội ngày 9-10 năm ấy.
Nhà báo Đại tá Tạ Duy Đức –nguyên Trưởng phòng quốc tế báo Quân đội nhân dân kể: Ngày 5-10 Tiểu đoàn 79 hành quân về xã Dịch vọng huyện Từ Liêm. Lúc đó, tôi làm cán bộ Tuyên huấn của Trung đoàn. Tôi biết tiếng Pháp nên được cử làm phái viên, đi với mũi của Tiểu đoàn 79 tiến vào Hà Nội theo hướng Tây Bắc. 5 giờ sáng ngày 9-10 cả Tiểu đoàn tập trung tại thôn Hậu xã Dịch Vọng lên xe ô tô Môlôtôva đi qua Cầu Giấy, rẽ đê La Thành lên Bưởi, xuống đường Hoàng Hoa Thám ra vườn hoa Mai Xuân Thưởng. Lúc này, quân Pháp giới nghiêm nên không có dân đi ngoài phố. Đoàn xe chở bộ đội khoảng 20 chiếc chạy một mạch.
Binh sĩ Pháp đã chờ ta sẵn ở vườn hoa đón vào Sở chỉ huy. Đó là 1 chiếc xe bọc thép xích sắt và có 2 xe tải chở lính bảo vệ. Tôi hỏi bằng tiếng Pháp:
- Đây có phải là Sở chỉ huy số 1 không?
- Vâng! Đúng ạ! Thưa ngài.- Viên sĩ quan Pháp lễ phép trả lời. Mời các ngài lên xe.
Ta triển khai chia tiểu đoàn thành 4 mũi. Mũi 1 tiếp quản Sở toàn quyền Đông Dương (Phủ Chủ tịch), Nha Tài chính (Trụ sở Bộ Ngoại giao). Mũi 2 đi tiếp đường Phan Đình Phùng rẽ ra Cửa Bắc tiếp quản Thành Hà Nội. Mũi 3 do xe của quân Pháp dẫn đi, rẽ qua phố Cửa Bắc tiếp quản Nhà máy điện Yên Phụ. Mũi 4 đi thẳng lên Đê Yên Phụ tiếp quản Nhà máy nước.
Mũi tiếp quản Nhà máy điện do đồng chí Đỗ Đình Sửu - Chính trị viên đại đội phụ trách. Viên sĩ quan Pháp nói: "Đây là các vị trí mà các ngài tiếp quản".
ở mỗi vị trí chỉ còn 1-2 tên lính Pháp gác cùng với các chiến sĩ của Tiểu đoàn Bình Ca. Thủ tục bàn giao diễn ra rất nhanh chóng. Bàn giao đến đâu quân Pháp rút ngay đến đó.
- Có chỗ nào cài mìn không? Tôi hỏi.
- Thưa không. Gỡ hết rồi ạ. - Viên sĩ quan Pháp trả lời.
Nhà máy vẫn hoạt động bình thường, điện vẫn sáng. Anh em công nhân ùa ra đón bộ đội, tay bắt mặt mừng, những lá cờ đỏ sao vàng đã chuẩn bị sẵn được treo ngay lên những vị trí cao nhất. Quân Pháp tập trung hết ở cổng nhà máy chờ xe đón về.
Tôi đi theo đơn vị tiếp quản Nhà máy nước do đồng chí Đào Trọng Nhiệm - Đại đội trưởng chỉ huy. Cũng như ở Nhà máy điện, bàn giao đến đâu cờ đỏ sao vàng tung bay đến đó. Địch không phá hoại một thứ gì, cũng không tháo mang đi cái gì cả. Máy móc vẫn hoạt động bình thường.
Đến 4 giờ chiều ngày 9-10 tôi nhận được lệnh đi theo mũi tiếp quản cầu Long Biên. Dưới chân cầu, quân Pháp đứng lố nhố, có cả lính nguỵ khá đông. Chúng tập trung khoảng vài chục chiếc xe, cả xe tải, xe bọc thép để chờ lần lượt qua cầu. Tôi nghe rõ tiếng đồng bào hô to với những tên lính nguỵ:
- Bỏ ngũ mà về đi thôi!
Chúng cúi đầu im lặng. Những tên lính Pháp cũng im lặng. Một chiếc xe Jép đi sau cùng chở viên đại tá Đác Giăng xơ - Chỉ huy quân Pháp rút quân ở Hà Nội lúc đó. Bộ đội ta đi bộ. Ban liên hiệp đình chiến giao cho tôi cầm lá cờ đuôi nheo mầu xanh lá cây đẫn đầu trung đội tiếp quản. Đến giữa cầu, viên đại tá cho dừng xe lại và nói:
- Thôi! Các ông tiếp quản đến đây. Từ nửa cầu này sang Gia Lâm thuộc về chúng tôi đến hết ngày mai.
Lúc đó là 4 giờ 30 phút chiều. Tôi chào bằng tiếng Pháp:
- à Dieu! (vĩnh biệt)
Hắn phẩy tay một cái, lùi lũi lên xe. Chiến sĩ ta ở lại gác nửa cầu bên này. Tôi về lại trong thành. Ban Chính trị Trung đoàn đóng ở Nhà Rồng. Trời bắt đầu rét. Anh em rét run cầm cập nhưng thao thức không sao ngủ được. Ai cũng mong sớm được về thăm gia đình. Nhà tôi ở phố Yên Ninh ( phố Nguyễn Trường Tộ), rất gần chỗ đóng quân mà không được về. Hà Nội đêm 9-10 vẫn thực hiện giới nghiêm.
Gió bắc rít mạnh từng cơn, Đội Công binh đặc nhiệm do đồng chí Nguyễn Viên - Chính uỷ Trung đoàn trực tiếp chỉ huy anh em vượt qua gian khó treo bằng được lá cờ đỏ sao vàng lớn lên đỉnh cột cờ Hà Nội để sáng 10-10 tung bay trong nắng sớm chào đón Đại quân ta tiến vào tiếp quản Thủ đô.
Cờ hồng tung bay
Đêm 9 rạng sáng 10/10/1954 lá cờ đỏ sao vàng rộng khoảng 30 m2 tung bay trên nóc cột cờ Hà Nội, trang nghiêm và hùng tráng kết thúc 9 năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ, chào đón đoàn quân chiến thắng trở về. Nhưng để treo được lá lên nóc cột cờ hình 8 cạnh cao hơn 30m, đỉnh cột là một cái tán rộng 3,6m mỗi cạnh dài 1,2 m với 8 cửa sổ, leo 52 bậc cầu thang xoáy trôn ốc là cả một sự cố gắng hết mình của những chiến sĩ công binh Đại đội 2. Làm sao dựng được 1 cây cột cao 12m để treo cờ với độ cao 60 m trong khi gió to? - Đại tá Nguyễn Viên – nguyên Chính uỷ Trung đoàn 102 Đại đoàn 308 nay đã 83 tuổi, bồi hồi nhớ lại thời kháng chiến và giờ phút thiêng liêng ấy...Ông kể:
Đầu tháng 9-1954 Chúng tôi nhận được lệnh hành quân về chuẩn bị tiếp quản Thủ đô. Lúc này, Anh hùng Nguyễn Quốc Trị làm Trung đoàn trưởng, tôi là Chính trị viên chúng tôi đóng quân ở thị trấn Phùng. Chiều ngày 9-10 tôi được giao nhiệm vụ: Phụ trách đại đội 2 công binh do đồng chí Phạm Văn Trọng làm đại đội trưởng chuẩn bị thật chu đáo, treo lá cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột cờ Hà nội sao cho chắc, nghiêm trang để 10-10 đích thân Anh hùng Nguyễn Quốc Trị sẽ kéo cờ trong tiếng nhạc hùng tráng chào mừng đoàn quân chiến thắng trở về.
Đồng chí Phạm Văn Trọng dẫn anh em vào Hà Nội từ chiều mùng 9-10 để làm công tác chuẩn bị. Lá cờ của Pháp đã hạ xuống từ chiều mùng 8-10. Chúng tôi được cấp 2 lá cờ lớn khoảng 30m2, đựng vào chiếc dọ tre cho tiện khiêng vác và đưa lên cao. Cấp trên yêu cầu cán cờ phải dài đúng 12 m. Thoạt đầu cứ tưởng mọi việc dễ dàng, khi trèo lên đến nơi chúng tôi mới thấy chỉ có 1 cái trụ xây bằng gạch không có cán cờ và chỗ cố định lá cờ, mà trời rét, gió quá to. Thật là một việc cực kỳ khó khăn. Tôi vừa quán triệt vừa động viên anh em nghĩ cách và bằng mọi giá phải treo cờ bằng được.
Sau khi nghiên cứu kỹ xung quanh trên dưới cột cờ, anh em nảy ra ý định: Vào ga Hàng Cỏ mượn 1 đoạn đường ray dài 12m làm cán cờ. Một bộ phận lập tức được cử đến ga Hàng cỏ. Đến nơi thấy anh em công nhân đang dựng cổng trào để đón mừng chiến thắng, nghe bộ đội trình bầy ý định mượn 1 thanh ray để làm cán cờ, họ cười ồ lên. Một đồng chí phụ trách nói:
- Thanh ray nặng thế làm cán cờ sao được. Để anh em chúng tôi làm giúp.
Rồi anh phân công cho anh em công nhân mỗi người tìm một thứ từ những tuýp nước đến cái ròng rọc. Một lát sau họ đã hàn xong cái cán cờ đúng như yêu cầu: dài 12m ống thép phi 100 mm có cả ròng rọc và dây kéo rất trơn. Họ còn cho chúng tôi mượn 1 chiếc xe đẩy để chở cán cờ về. Dọc đường đi chiếc xe lọc cọc, dân phố hai bên đường phố Cửa Nam hé cửa nhìn ra kháo nhau: "Bộ đội Cụ Hồ có cái súng gì mà nòng dài thế?"
Về đến chân cột cờ anh em dùng tời kéo ngay cán cờ lên, lấy dây cáp cột cán cờ vào trụ gạch, nhưng gió to quá đẩy nghiêng cán cờ làm nứt trụ. Anh em chuyển gỗ lên chèn chặt, chắc chắn rồi lấy cờ ra kéo thử. Do anh em chưa có kinh nghiệm đưa lá cờ qua cửa sổ, bị gió to xé rách, phải thay lá cờ thứ hai. Lá cờ thứ hai được kéo lên, tung bay hùng tráng lắm. Anh em đứng lặng ngắm nhìn, bảo nhau nghỉ ngơi một lát, rồi hạ cờ xuống xem có an toàn không. Vì ngày mai Anh hùng Nguyễn Quốc Trị sẽ từ từ kéo cờ trong tiếng quân nhạc. Lỡ có sự cố thì không được.
Cờ vừa hạ xuống được vài mét thì dây cáp bị trượt ra ngoài trục ròng rọc, kẹt cứng trên đỉnh cán cờ, kéo lên không được, hạ xuống không xong. Mọi người đứng chết lặng. Làm thế nào đây? Đã nửa đêm rồi, anh em vừa đói, vừa rét, vừa mệt rã rời. Không lẽ lại hạ cán cờ xuống làm lại từ đầu. Bỗng có tiếng nói: "Tôi xin trèo lên để gỡ cờ". Mọi người đồng loạt quay lại, thì ra đồng chí tiểu đội trưởng Trần Văn Giai, quê ở Thanh Hoá, trước khi đi bộ đội có nghề trèo cau thuê đã xung phong trèo lên gỡ cờ.
Anh em vừa mừng, vừa lo cho Giai vì cột thép cao lại trơn nhẵn, trời gió mỗi lúc một mạnh hơn, rét rát mặt dễ ngã, nguy hiểm đến tính mạng. Mọi người ai nấy đứng vòng quanh cán cờ, đưa tay sẵn sàng tư thế đỡ bảo hiểm cho anh. Lá cờ được kéo lên đỉnh và cố định lại ở đó. Đồng chí Giai đã tụt xuống tất cả các kẽ chân toé máu. Anh em băng bó lại, và để anh nghỉ ngơi.
Tôi báo cáo với cấp trên vì có thể có sự cố không an toàn khi kéo cờ, nên đề nghị cố định cờ luôn. Ngày mai ta chào cờ treo sẵn và được cấp trên đồng ý. Mọi người phấn khởi lắm cứ ngửa mặt ngắm mãi lá cờ. Bỗng phát hiện ra một lỗ thủng to khoảng 20cm ở phía đuôi cờ. Gay quá! Giai đau chân, lấy ai trèo lên khâu lại được bây giờ? hay là cho qua. Không được! Đây là sự kiện trọng đại của dân tộc. Không thể để xảy ra dù một sơ xuất nhỏ.
Đồng chí Giai lại xung phong trèo lên để khâu lại chỗ rách, mặc dù chân đang rất đau. Anh em đỡ Giai trèo lên, mang sẵn kim chỉ khâu đính lá cờ lại. Công việc hoàn tất cũng là lúc mặt trời mọc. Lá cờ tung bay phần phật trong ánh hừng đông. 3 giờ chiều đoàn quân Đại đoàn 308 tiến vào tiếp quản thủ đô, hàng ngũ chỉnh tề. Một hồi còi hiều trên nóc Nhà hát lớn rúc lên. Nhạc quốc ca cử hành, lá cờ tung bay phần phật, hiên ngang, kiêu hãnh.
Chúng con đã về đây... mẹ ơi!
Ông là người dân gốc Hà Nội, có ông nội là nhà buôn bán ở số 9-11 phố Hàng Buồm, còn gia đình ông ở 28 phố Hàng Mã, thuở nhỏ học tiểu học ở phường Hàng Ke (Trần Nhật Duật), tham gia cướp chính quyền ngày 19/8/1945 ở đội hình lấy Trại bảo án binh do đồng chí Vương Thừa Vũ làm chi đội trưởng chi đội giải phóng quân Hà Nội chỉ huy, rồi làm liên lạc viên trong đội thanh niên cứu quốc Hà Nội do đồng chí Vũ Quang làm Bí thư thanh niên. Ông là đại tá Trịnh Tráng - nguyên là Trưởng tiểu ban tác chiến Trung đoàn 36 (Trung đoàn Bắc Bắc) Đại đoàn 308. Nửa thế kỷ đã qua đi, trải qua biết bao sóng gió cuộc đời... nhưng ông không khỏi xúc động khi nhớ lại cảm xúc của người con Hà Nội khi về tiếp quản Thủ đô ngày 9-10 năm ấy...
Tôi sinh năm 1929, 15 tuổi bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, làm liên lạc viên cho đồng chí Vương Thừa Vũ. Sau khi tham gia cướp chính quyền ở Hà Nội, năm 1946 tôi được điều lên làm võ trang tuyên truyền, giải tán chính quyền cũ ở tỉnh Sơn La, với nhiệm vụ treo cờ đỏ sao vàng lên những vị trí quan trọng của tỉnh trước khi quân Tàu Tưởng kéo vào.
Khi có Lệnh toàn quốc kháng chiến tôi lại về tham gia chiến đấu cùng đội tự vệ Ngọc Thuỵ (Gia Lâm) đánh Pháp ở phía Bắc đầu cầu Long Biên. Sau đó tôi làm Trung đội trưởng tự vệ Bắc Ninh. Ngày 16/6/1948 một trung đội lính tây đen (ta quen gọi là tây 3 gạch, vì mỗi tên lính đều có 3 vết sẹo rạch mặt) đi càn. Tôi bố trí anh em tự vệ phục kích, lừa cho chúng lọt vào vòng vây của ta mới nổi súng. Bị bất ngờ bọn chúng hoảng loạn bỏ chạy. Chúng tôi tóm gọn, bắt sống 9 tên lính tây đen, thu toàn bộ vũ khí.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi là Đại đội trưởng Đại đội thọc sâu đầu tiên nhận lệnh trực tiếp của đồng chí Vương Thừa Vũ đánh nhanh thắng nhanh rồi lại chuyển sang đánh vây lấn. Ngày 13/5/1954 tôi được vinh dự là đại biểu của Đại đoàn 308 đi dự lễ mừng chiến thắng ở Mường Phăng. Sau đó, để phục vụ Hội nghị Trung Giã, Trung đoàn Bắc Bắc có nhiệm vụ sửa đường từ Thái Nguyên về Trung Giã cho xe ô tô đi được.
Trong khi sửa đường có một đoàn dân công đi qua. Tôi hỏi với: "Có ai ở Thanh Hoá không? cho tôi hỏi thăm với". Có người thưa. Tôi nói vội: "Bố tôi tản cư ở Thọ Xuân, có chị dâu cả là Nguyễn Thị Tần, mở nhà hộ sinh ở Hậu Hiền". Người đó reo lên: "Vợ tôi vừa sinh con ở Hậu Hiền, nhà hộ sinh Nguyễn Thị Tần. Anh có nhắn gì không?"
Tôi nói vội địa chỉ đơn vị và gửi quà cho bố: một chiếc võng dù, mấy quyển hoạ báo mà tôi được tặng hôm mừng chiến thắng. Rồi đoàn dân công đi qua. Đúng ngày 4-7 Hội nghị Trung Giã khai mạc cũng là ngày Trung đoàn Bắc Bắc có lệnh cấp tốc hành quân về Bắc Giang mở chiến dịch Mặt trận sông Hoá. Ngày 6-7 chúng tôi đánh thắng ròn rã trận cầu Mỗ Sơn được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba.
Hội nghị Trung Giã kết thúc, chúng tôi được lệnh chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô. Đầu tháng 9-1954 từ Trại Cờ (Bắc Giang) chúng tôi hành quân về Mai Lĩnh. Thật bất ngờ! Tôi nhận được thư của bố theo đúng địa chỉ mà tôi đã nhắn qua người dân công nọ. Trong thư bố tôi hẹn: Sẽ đón tôi ở Tràng Tiền vào ngày 10-10. Sung sướng vô cùng. Đây là khu phi quân sự của cả hai bên, không gian yên tĩnh, đường nhựa sau cơn mưa cuối mùa sạch bóng, lúa đang độ chín thơm ngào ngạt, không kìm được lòng mình tôi nằm lăn ra mặt đường một lát cho thoả nỗi nhớ nhà. Tám năm trời xa những hàng cây, những con phố thân thương. Nhớ quá Hà Nội ơi!
Chúng tôi tiếp tục hành quân đến Bình Đà, rẽ xuống Văn Điển vào Giáp Bát, Tương Mai, Mai Động. Đêm 8 rạng ngày 9-10 trời mưa rất to. Tại điểm gác ở Trương Định một lính Pháp đứng gác dưới mưa không có mái hiên che ngỏ ý sang đứng nhờ cùng với bộ đội ta. Tôi đồng ý với điều kiện tạnh mưa phải về vị trí. Trời đã tạnh mưa, đường nhựa sạch bóng dưới ánh đèn đường. Tôi lại nằm lăn ra đường một lần nữa và cảm thấy như đang được nằm ở sân thượng nhà ông nội thuở nào.
Lúc này Hà Nội vẫn thực hiện luật giới nghiêm, đường phố vắng lặng. Chúng tôi tiến đến gần ga Hàng Cỏ mới gặp các đồng chí ở Ban liên kiểm Việt Pháp. Họ ra hiệu cho xe tăng lùi lại, bấy giờ dân phố mới mở tung cửa ra, cờ đỏ, băng rôn treo phấp phới. Tiểu đoàn 80 vào tiếp quản ga Hàng Cỏ. Tiểu đoàn 89 và Trung đoàn bộ rẽ vào khu Đấu Xảo. Ngày 9-10 chúng tôi bắt đầu dán những quy định thiết quân luật của ta lên những điểm nhân dân dễ thấy.
Ngày 10-10 chúng tôi vẫn đứng gác tại các trọng điểm bảo đảm an toàn cho các đơn vị diễu hành. Cả ngày hôm ấy mẹ tôi đứng đợi trước ngõ hiệu vàng Đức Âm, đối diện rạp Công Nhân. Bà hỏi thăm Trịnh Tráng - Trung đoàn 36 anh em mách ra Đấu Xảo. Đến trưa bà ra Đấu Xảo, anh em lại chỉ vào ga Hàng Cỏ. Tôi lại bận đi kiểm tra nên mẹ con không gặp nhau. Ngày hôm sau 11-10 tôi và đồng chí Ngô Ngọc Dung, Trung đoàn trưởng lấy xe đạp đi kiểm tra các tuyến phố thuộc khu vực Trung đoàn quản lý. Qua Nhà hát lớn, tôi đưa mắt tìm vẫn không thấy bóng mẹ đâu, quay lại Tràng Tiền, trông thấy mẹ tôi đang đứng ngóng trước rạp Công Nhân. Mừng quá! Hai hàng nước mắt chực trào ra. Tôi ôm lấy mẹ reo lên: "Mẹ ơi! Con đã về đây!". Mẹ tôi mừng lắm, cứ nghẹn ngào không nói nên lời. Vì đang làm nhiệm vụ nên tôi phải chào mẹ về đơn vị. Sáng hôm sau đồng chí Chính uỷ Chu Thanh Hương đi cùng tôi về thăm gia đình. Cả nhà giục tôi lấy vợ. Lúc đó tôi đã bước sang tuổi 26 chỉ biết cười trừ...
Sau ngày tiếp quản cán bộ chiến sĩ Đại đoàn 308 chúng tôi ra sức tập luyện để chuẩn bị lễ duyệt binh ngày 1/1/1955 đón Bác Hồ và Chính phủ ta trở về. Tôi vẫn đi tiếp con đường binh nghiệp cho đến khi nghỉ hưu. Kỷ niệm sâu sắc nhất trong đời tôi là ngày tôi gặp mẹ khi Hà Nội sạch bóng quân thù.
Nguyễn Thị Tâm Bắc
(Ghi theo lời kể của các nhân chứng)