Chuyện về nữ du kích kiên trung

Chính trị - Ngày đăng : 13:27, 29/09/2004

Trần Thị Bắc sinh năm 1932, tại thôn Xuân Dục Đoài, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn - Hà Nội. Từ đỉnh núi Sóc, nhìn về quê hương cô đẹp như một bức tranh hoạ đồ. Với những con ngòi nhỏ uốn lượn chảy qua, ở giữa cánh đồng lúa chín vàng óng ả, mọc lên hai ngọn núi xanh biếc, có hình thù, kích thước giống hệt nhau, khiến mọi người dễ có cảm nhận, đó là một cặp núi sinh đôi. Núi Đôi, vốn là một vùng đất giầu truyền thống cách mạng, và cũng rất

Huyện Sóc Sơn, quê hương của chị Bắc

Trần Thị Bắc sinh năm 1932, tại thôn Xuân Dục Đoài, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn - Hà Nội. Từ đỉnh núi Sóc, nhìn về quê hương cô đẹp như một bức tranh hoạ đồ. Với những con ngòi nhỏ uốn lượn chảy qua, ở giữa cánh đồng lúa chín vàng óng ả, mọc lên hai ngọn núi xanh biếc, có hình thù, kích thước giống hệt nhau, khiến mọi người dễ có cảm nhận, đó là một cặp núi sinh đôi. Núi Đôi, vốn là một vùng đất giầu truyền thống cách mạng, và cũng rất "tình đất, tình người".

Trong những năm kháng chiến chống Thực dân Pháp, do địa hình nằm ở giữa vùng có những con đường huyết mạch chạy qua như: Quốc lộ 3, (Hà Nội - Thái Nguyên), đường 131 nối liền tỉnh Vĩnh Phúc qua sông Cầu tới Bắc Giang… nên khu vực núi Đôi bao gồm các xã: Phù Linh, Tiên Dược, Tân Minh của huyện Sóc Sơn đã trở thành một đầu mối rất quan trọng, ví như một "mắt xích" nối liền giữa chiến khu Việt Bắc với Thủ Đô - Hà Nội, giữa các tỉnh đồng bằng, trung du và miền ngược. Vì thế nơi đây thường diễn ra sự giằng co rất quyết liệt giữa ta và địch.

Vốn sinh trưởng trong một gia đình có bố làm xã đội phó, cậu là xã đội trưởng, các chú, các bác đều là cán bộ Việt Minh và bộ đội, nên Trần Thị Bắc đã sớm có ý thức giác ngộ cách mạng, nhất là cô được tận mắt chứng kiến bao cảnh càn quét, cướp bóc, đốt phát, bắn giết hết sức dã man của bọn lính Pháp và nguỵ quân ngay ở quê mình. Năm 1947, lúc đó mới 15 tuổi, nhưng Trần Thị Bắc đã tích cực tham gia hoạt động trong các phong trào đoàn thể thanh, thiếu niên.

Cuối năm 1949, cô xin gia nhập đội du kích, làm nhiệm vụ giao thông liên lạc, tiếp tế và trực tiếp tham gia chống càn, bảo vệ nhân dân trong lúc đi tản cư. Sau đó cô được cử ra vùng tự do để theo học lớp y tá. Cũng trong thời gian này, Trần Thị Bắc gặp anh bộ đội tên là Trịnh Khanh, thuộc đại đội Trần Văn Tuấn (là nhân vật: "Anh đi bộ đội sao trên mũ..." trong bài thơ "Núi Đôi" của Vũ Cao). Sau vài lần gặp gỡ, cả hai mới biết rằng: họ đều là người cùng xã. Chàng trai ở thôn Vệ Linh, người chân núi Sóc, còn cô gái ở thôn Xuân Dục Đoài, dưới chân Núi Đôi. Tình yêu thương, đất nước và lòng căm thù giặc sâu sắc đã giúp họ cùng chung một chí hướng, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà đơn vị và đoàn thể giao cho.

Cụ Nguyễn Thị Thân, 89 tuổi, là thím của Trần Thị Bắc, hiện còn sống tại Thôn Xuân Dục Đoài kể lại: Cô Bắc là con gái cả trong gia đình, nên sớm biết lo toan công việc, giúp đỡ bố mẹ. Cô vừa nhanh nhẹn, tháo vát lại đẹp người, đẹp nết, nên đi đâu và làm việc gì cũng đều chót lọt. Có một lần bà Nguyễn Thị Tèo (mẹ của Bắc bỗng dưng thấy cô sắm đôi quang thúng mới - bà hỏi: "Thế con sắm quang thúng để làm gì?" Bắc cười hồn nhiên và nói với mẹ: "Con tập đi buôn đấy mẹ ạ!". Ai ngờ chính đôi quang thúng đi buôn ấy, vừa là để che mắt kẻ địch và cũng là nơi cất giấu tài liệu của cô du kích.

Cũng từ năm 1951, người ta thường thấy ở thôn Đoài có một cô gái hoà lẫn vào dòng người đi buôn bán ở khắp mọi nơi. Với đôi quang thúng trên vai, cô đi khắp các hang cùng ngõ hẻm. Lúc thì ở trong vùng địch tạm chiếm, khi lại ra vùng tự do. Lúc bán muối, khi mua vản, bán rau... Những lần mua, bán hàng ấy, chính là lúc cô dò la, thu thập tình hình một cách có hiệu quả nhất, sau đó kịp thời chuyển những tin tức quan trọng ra vùng tự do.

Bọn lính Tây và lính nguỵ trong vùng đều quá quen thuộc cô, nên không hề có chút nghi ngờ, chúng còn kháo nhau: "Một ngày mà không nhìn thấy em Bắc xinh đẹp một lần, thì buồn lắm". Trước sự mất cảnh giác của kẻ thù, Trần Thị Bắc lại càng thông minh, lanh lợi và khôn khéo. Những khi không đi buôn bán, lại thấy cô cầm liềm, quẩy đôi quang gánh lên tận đỉnh núi Đôi để cắt cỏ; và không có chỗ đồn, bốt nào của địch mà cô không biết. Với hình thức hoạt động công khai ấy, không những bọn địch không nghi ngờ, mà nhiều khi chúng còn vô tình cung cấp tin tức cho cô. Có những tên chỉ huy, khi vào làng càn quét, đã muốn lấy cô làm vợ bé. Lợi dụng tình thế ấy, Trần Thị Bắc đã linh hoạt chuyển ngay sang hình thức làm công tác binh, địch vận đối với những tên này.

Bằng những lời lẽ khôn khéo, đầy tính thuyết phục của mình, Trần Thị Bắc đã thành công trong việc vận động một người cai trong hàng ngũ lĩnh nguỵ và một lính Pháp tự mang súng ra đầu hàng cách mạng. Nhờ có những thông tin rất quan trọng do Trần Thị Bắc cung cấp, nên một số cơ sở của ta không bị lộ. Đặc biệt là tránh được những tổn thất đối với số cán bộ của ta đang hoạt động ở trong vùng địch hậu.

Đầu năm 1954, Thực dân Pháp tăng cường phòng thủ tại Điện Biên Phủ, đồng thời đánh pháp quyết liệt, nhằm ngăn chặn sự chi viện của ta cho chiến trường Điện Biên. Để trấn an tinh thần bọn lính Pháp và nguỵ quân ở phía sau, chúng ráo riết tổ chức các cuộc vây bắt, lùng sục ở khắp nơi. Vào thời điểm này, Trần Thị Bắc cùng một lúc nhận được hai quyết định của trên, một là: về tỉnh để tiếp tục học lớp y tá, hai là: về làm công tác quân báo tại huyện đội Đa Phúc (nay là Sóc Sơn). Lý do: có thể cô đã bị lộ, nên cấp trên có ý định chuyển vị trí công tác của cô.

Ông Lê Văn Túc, 77 tuổi, là cán bộ lão thành cách mạng, thôn Xuân Dục Đoài, và là tổ trưởng quân báo của huyện lúc đó kể lại trận chiến đấu cuối cùng của nữ du kích Trần Thị Bắc: Hôm đó là 16/3/1954 (sau 3 ngày quân ta mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ). Vào lúc 22 giờ đêm, sau khi đã giúp Ban chỉ huy một đơn vị bố trí xong lực lượng, chuẩn bị cho trận mai phục quân địch ở khu vực chùa Táo.

Trần Thị Bắc nhận nhiệm vụ đưa đoàn cán bộ khoảng 30 người, từ vùng địch hậu Lương Châu, ra vành đai trắng Phù Linh. Cô đi trước thăm dò, khi đến chân Núi Đôi, không may rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng bắt cô và bịt miệng cô lại, với ý định sẽ phục chờ bắt nốt số người đi sau. Biết được âm mưu của địch, Bắc đã chống cự quyết liệt, bất thình lình cô lao vào tên quan Pháp, tìm ngay vào chỗ hiểm của hắn và dùng hết sức mình bóp chặt.

Đòn đau bất ngờ làm tên quan Pháp kêu rống lên như con bò bị chọc tiết. Một tên lính lê dương đứng cạnh đó vội lôi Bắc ra và xả cả một băng đạn vào ngực cô. Thấy động, đoàn cán bộ của ta đã rút lui an toàn. Còn Trần Thị Bắc đã anh dũng hy sinh. Bất chấp đạn pháo của địch bắn tràn tới, anh em trong đội du kích đa lao vào đưa thi thể của Trần Thị Bắc về Cầu Cốn, Vệ Sơn để làm lễ truy điệu và mai táng cô tại đó./.

Theo vov.org

LEQUYEN