Giám sát đặc biệt doanh nghiệp mất an toàn tài chính
Tài chính - Ngày đăng : 16:36, 12/10/2015
Các dấu hiệu này bao gồm DN đang trong giai đoạn lỗ kế hoạch, có số lỗ phát sinh năm báo cáo lớn hơn 30% so với mức lỗ kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Dấu hiệu đối với DN sau giai đoạn lỗ kế hoạch gồm: có số lỗ phát sinh trong năm báo cáo từ 30% vốn đầu tư của chủ sở hữu trở lên, số lỗ lũy kế lớn hơn 50% vốn đầu tư của chủ sở hữu; hoặc DN có hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu vượt quá mức an toàn theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước; có hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn nhỏ hơn 0,5.
Nghị định nêu rõ, những quy định nêu trên là dấu hiệu cảnh báo khả năng đặt một DN vào tình trạng giám sát tài chính đặc biệt. Khi đó, cơ quan đại diện chủ sở hữu và cơ quan tài chính cùng cấp phối hợp xem xét các dấu hiệu mất an toàn tài chính, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư của DN để quyết định đưa DN vào diện giám sát tài chính đặc biệt hay tiếp tục giám sát tài chính. Nghị định cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Hội đồng thành viên (Chủ tịch Công ty), Tổng giám đốc hoặc Giám đốc DN thuộc diện giám sát tài chính đặc biệt. Cụ thể, lãnh đạo các DN thuộc diện này phải lập phương án khắc phục, phương án cơ cấu lại tổ chức, hoạt động kinh doanh và tài chính để trình cơ quan đại diện chủ sở hữu trong thời gian 30 ngày kể từ ngày có Quyết định bị giám sát tài chính đặc biệt.
Bên cạnh đó, lãnh đạo DN cũng phải báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu, cơ quan tài chính theo tần suất đã thống nhất với cơ quan đại diện chủ sở hữu về các chỉ tiêu giám sát được phê duyệt trong phương án khắc phục, phương án cơ cấu lại tổ chức, hoạt động kinh doanh và tài chính của DN.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ 1-12-2015 và áp dụng cho năm tài chính 2016 trở đi. Bộ Tài chính chủ trì cùng các Bộ, ngành hướng dẫn, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện Nghị định này.