[Cập nhật] Trưng cầu ý dân: Chọn phương án được quá nửa số phiếu ủng hộ
Chính trị - Ngày đăng : 09:53, 28/05/2015
Đọc tờ trình trước Quốc hội, ông Nguyễn Văn Quyền, Chủ tịch Hội Luật gia cho biết, trưng cầu ý dân đã được xác định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Điều 29 Hiến pháp cũng xác định rõ: “Nhân dân có quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Trưng cầu ý dân là một phương thức để người dân trực tiếp thể hiện ý chí và quyền lực của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước trong từng thời điểm cụ thể.
Trên cơ sở đó, Hội Luật gia trình Quốc hội Dự thảo Luật trưng cầu ý dân gồm 9 chương, 56 Điều.
Đáng chú ý, về quy định chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân, Ban soạn thảo thiết kế hai phương án.
Phương án một, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội có quyền trình đề nghị trưng cầu ý dân.
Phương án hai, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng, Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền trình đề nghị trưng cầu ý dân.
Các ý kiến theo phương án một cho rằng, phương án này để đảm bảo thống nhất với quy định tại khoản 1, điều 19 Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi 2014).
Các ý kiến đề nghị phương án hai đưa ra 3 lý do.
Thứ nhất, theo quy định tại điều 98 Hiến pháp 2013, Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ, lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật, lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính tính thống nhất của hệ thống hành chính quốc gia.
Thứ hai, việc quy định Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền đề nghị trưng cầu ý dân sẽ tạo thêm một kênh thông tin quan trọng để Quốc hội xem xét, quyết định vấn đề trưng cầu ý dân, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy vai trò của mình.
Thứ ba, việc Luật Tổ chức Quốc hội (khoản 1, điều 19) chỉ quy định 4 chủ thể (như phương án 1) không cản trở Luật Trưng cầu ý dân bổ sung thêm chủ thể vì Luật này là luật chuyên ngành trong lĩnh vực trưng cầu ý dân.
Đối với phương án này, cũng có ý kiến cho rằng, để phù hợp với Hiến pháp, cần phải giới hạn Thủ tướng và Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không được đề nghị trưng cầu ý dân về Hiến pháp.
Thẩm tra dự luật này, thay mặt Ủy ban pháp luật của Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Phan Trung Lý tán thành với sự cần thiết ban hành Luật trưng cầu ý dân nhằm kịp thời cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, tạo cơ sở pháp lý cho người dân tham gia vào các công việc của Nhà nước, trực tiếp thể hiện quyền làm chủ của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH Phan Trung Lý |
Về những vấn đề đề nghị Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân, Ủy ban đề nghị, việc xác định cụ thể những vấn đề nào phải đưa ra trưng cầu ý dân phụ thuộc vào yêu cầu và điều kiện hoàn cảnh tại từng thời điểm nhất định. Vì vậy, khó có thể quy định cụ thể trong Luật.
Do đó, trong Luật nên quy định một cách khái quát, mang tính nguyên tắc những vấn đề có thể được đề nghị đưa ra trưng cầu ý dân. Cụ thể, những vấn đề đề nghị Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân là những vấn đề về Hiến pháp và những vấn đề quan trọng khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng Quốc hội tôn trọng dân quyết định. Đồng thời, để có cơ sở cho các chủ thể đề nghị và Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân, đề nghị dự thảo Luật cần bổ sung các điều kiện và tiêu chí đối với vấn đề được đề nghị trưng cầu ý dân.
Ngoài ra, dự Luật chỉ nên quy định phạm vi trưng cầu ý dân trên toàn quốc mà không tiến hành ở phạm vi địa phương.
Về quy định chủ thể được quyền đề nghị trưng cầu ý dân, Ủy ban tán thành với phương án một. Theo Ủy ban, trưng cầu ý dân là hình thức thực hiện quyền dân chủ trực tiếp cao nhất của người dân. Chủ thể đề nghị trưng cầu ý dân đã được Quốc hội thảo luận và cân nhắc kỹ tại kỳ họp thứ 8 khi xem xét, thông qua Luật tổ chức Quốc hội. Do vậy, quy định như phương án một là để bảo đảm tầm quan trọng của việc đề nghị trưng cầu ý dân và để thống nhất với Luật Tổ chức Quốc hội.
Về kết quả trưng cầu ý dân, Ủy ban tán thành phương án một tại dự thảo luật. Đó là: “Cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được quá nửa tổng số cử tri có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu. Phương án trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành được công bố để thi hành”.
Ủy ban cho rằng, nếu quy định quá cao (quá 2/3) đối với một vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân thì không khả thi. Thậm chí, nếu việc trưng cầu ý dân được tổ chức không tốt có thể dẫn đến tình trạng thúc ép cử tri đi bỏ phiếu hoặc cử tri đi bầu hộ, bầu thay. Như vậy, sẽ làm giảm sút ý nghĩa của việc trưng cầu ý dân với tư cách là một hình thức để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình.
Mặt khác, đối với Hiến pháp thì quy trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp được quy định rất chặt chẽ, theo đó, phải hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Hiến pháp mới được thông qua; sau khi Hiến pháp được thông qua thì Quốc hội mới tổ chức trưng cầu ý dân. Do vậy, quy định như phương án một là hợp lý.