Tứ Tổng ngày ấy
Xã hội - Ngày đăng : 07:19, 29/08/2004
Cuộc chiến đấu quyết tử 60 ngày đêm (19/12/1946-17/2/1947) còn in đậm trong tâm trí những chiến sĩ Trung đoàn thủ đô và nhân dân Hà Nội. Hơn 50 năm qua, những bãi ngô, dâu bên bến sông Tứ Tổng (Tứ Liên – Tây Hồ) vẫn vang vọng cùng tiếng sóng Sông Hồng những bước chân thần kỳ của 1.200 cảm tử quân rút gọn trong đêm 17 rạng ngày 18 tháng 2 năm 1947 lên chiến khu để bảo toàn lực lượng, tiếp tục 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
Bà Thảo gặp lại người chèo đò đưa bộ đội qua sông đêm 17-2-1947
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, những chiến sĩ qua sông, cùng những tự vệ chèo đò năm ấy đến nay đều đã thọ ngoài tám mươi. Họ vẫn đến thăm nhau vào mỗi dịp Giỗ trận hàng năm (ngày 29 tháng giêng âm lịch) và tặng quà cho nhau mỗi khi tết đến, xuân về. Những câu chuyện, những cuộc đời dãi dầu bao năm tháng vẫn vui vầy kể cho nhau, cho lớp con cháu nghe những kỷ niệm một thời... đã trở thành dấu son trong lịch sử đấu tranh cách mạng Thủ đô. Người viết đã may mắn được gặp các cụ và được nghe những câu chuyện về một thời Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh ấy. Xin được bắt đầu từ câu chuyện của nữ cứu thương quyết tử trận Đồng Xuân:
Bà Nguyễn Thị Bích Thảo - Người làm “Bánh Quốc kỳ” đón tết Đinh Hợi trong lòng địch hậu.
Người phụ nữ đứng trong bức ảnh trên là bà Nguyễn Thị Bích Thảo một trong những nữ quyết tử trận Đồng Xuân ngày ấy. Bà là vợ của liệt sĩ Đỗ Đình Sửu-người đã tạo nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác bài hát “Hành quân xa” trong chiến dịch Tây Bắc. Những câu chuyện của bà thật dung dị mà bi tráng, thật đằm thắm của người gốc Hà Thành mà quyết liệt của một cảm tử quân.
Bà là con gái út trong một gia đình buôn bán ở số 34-36 phố Chợ Gạo (đối diện chợ Đồng Xuân, nay là phố Đồng Xuân), em gái cố nhà văn Như Phong (tức Nguyễn Đình Thạc) - Đảng viên Đảng cộng sản từ năm 1936. Ngay từ khi còn nhỏ, bà và hai người chị của mình đã tiếp thu lý tưởng cộng sản qua người anh cả và các bạn của ông thời đó. Trước khí thế sục sôi cách mạng, cả ba chị em bà đều bí mật tham gia Hội phụ nữ cứu quốc, rải truyền đơn, vận động chị em phụ nữ chợ Đồng Xuân bãi thị.
Một đêm đầu tháng 8-1945, đột nhiên anh Thạc từ chiến khu trở về nhà. Anh thông báo cho cả 3 chị em là Bích Tần, Bích Hạnh, Bích Thảo:
- Cách mạng sắp thành công rồi! Các em may cờ đỏ sao vàng 5 cánh và cờ đỏ búa liềm chuẩn bị tham gia Tổng khởi nghĩa, phải thật bí mật không được để lộ.
Rồi anh vẽ mẫu, hướng dẫn cách đặt ngôi sao cho thẳng, cho đúng. Ba chị em bà vừa hồi hộp, vừa lo lắng. Mỗi người chia nhau đi các chợ mua vải, mỗi nơi mua một mầu, mỗi nơi chỉ mua vài mét để địch khỏi nghi ngờ. Đêm đến, ba chị em đóng chặt cửa phòng, thắp nến ngồi khâu tay suốt đêm và nóng lòng chờ đợi. Ngày cách mạng thành công, chị em bà mang cờ treo khắp phố. Bà tích cực tham gia vận động nhân dân hưởng ứng Tuần lễ vàng, đi bán chân dung Hồ Chủ Tịch để lấy tiền quyên góp cho Chính phủ. Trong một lần đang bán chân dung Hồ Chủ Tịch, bất ngờ Bác xuất hiện ngay trước mặt làm bà không tin vào mắt mình mà ngỡ đang mơ. Bác ân cần hỏi Bà:
- Cháu bán có được nhiều không? Cháu phải mặc thêm áo ấm vào kẻo cảm lạnh đấy.
Bác Hồ đây ư? Người gần gũi và thân thương quá! Lần đầu được gặp Bác, được nghe Bác nói đã trở thành kỷ niệm không bao giờ quên với bà. Theo lời kêu gọi của Chính phủ, bà lại say sưa với các lớp dạy bình dân học vụ cho chị em chợ Đồng Xuân; đan áo mùa đông binh sĩ; học cứu thương... bằng cả bầu nhiệt huyết của cái tuổi “bẻ gẫy sừng trâu”.
Đêm 19/12/1946 khi Lệnh toàn quốc kháng chiến phát đi cũng là lúc 3 chị em bà xa gia đình, tình nguyện ở lại Hà Nội, gia nhập vào Đội cảm tử quân và được biên chế vào Trung đội 2, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Thủ đô, thề quyết tử ở rạp Tố Như. Bà và chị Hạnh được phân công làm cứu thương, chị Tần làm nuôi quân, quân trang, quân dụng. Dãy phố Đồng Xuân từ nhà số 2 đến số 48 đục tường thông nhau. Quân Pháp đi càn ngoài đường. Ta bắn tỉa, ném lựu đạn từ trên nóc nhà xuống, từ các ô cửa sổ ra. Ba chị em bà như con thoi luồn lách từ nhà này sang nhà khác tiếp tế, cứu thương cho bộ đội.
Tết nguyên đán Đinh Hợi (năm 1947) cả Trung đoàn Thủ đô vừa đánh giặc vừa chuẩn bị đón một cái tết đặc biệt. Ngoài việc chuẩn bị cho bộ đội đón tết, lãnh đạo và Ban chỉ huy Trung đoàn còn có ý định chuẩn bị một bữa tiệc để mời một số đại biểu người nước ngoài đang có mặt tại Hà Nội lúc đó. Họ là nhân viên của các lãnh sự quán Anh, Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc và một số phóng viên báo chí. Ý tưởng làm một chiếc bánh hình lá quốc kỳ ra đời. Mấy chị em nữ phân công nhau chuẩn bị: chị Hoàng Lan phụ trách trạm y tế chùa Cầu Đông cùng em Thuyết liên lạc viên trèo lên hái gấc chín của một nhà đối diện khách sạn Hoa Nam phố Hàng Giấy (có lính Pháp đóng ở trong). Chị vừa hái xong thì bị chúng phát hiện, bắn sang. May mà không ai bị trúng đạn. Hai chị em Ngọc Liên - Ngọc Như làm kẹo lạc, mứt tết. Hai chị em Bích Hạnh-Bích Thảo làm bánh quốc kỳ. Khuôn bánh được đặt tận phố Hàng Thiếc: rộng 40cm, dài 60 cm, dày 3cm.
Chiếc bánh được hoàn thành với gạo nếp cái hoa vàng nhuộm gấc đỏ thắm làm nền cờ, ngôi sao được làm bằng gạo nếp nhuộm hạt hoa rành rành vàng tươi và đậu xanh. Cùi dừa sát nhỏ, đường kính trắng, vừng rang vàng, va ni thơm lựng. Chiếc bánh được đặt trang trọng trên bàn ăn trải khăn trắng tinh. Trông xa tưởng như lá cờ đỏ sao vàng thật. Bữa tiệc đón giao thừa năm ấy thật thịnh soạn, có đủ bánh chưng, thịt lợn, thịt gà, mâm ngũ quả, cành đào Nhật Tân và cây quất Quảng An sai trĩu quả của đồng bào từ ngoại thành gửi vào. Ta chuẩn bị đón khách ở biệt thự Anh Hoa (giữa 2 mặt phố ngõ Gạch-Hàng Chiếu, có lối thông ra Hàng Đường).
Giao thừa đã điểm, lá Quốc kỳ làm bằng gạo nếp nổi bật dưới ánh đèn măng xông. Mọi người cùng nâng cốc chúng mừng năm mới vừa thưởng thức chiếc bánh đặc sản có một không hai đó. Các đại biểu người nước ngoài dự tiệc phải hết sức ngạc nhiên trước tinh thần chiến đấu lạc quan của quân và dân Hà Nội và không khỏi ngợi khen sự khéo léo tài hoa của nam, nữ bộ đội ta. Chiếc bánh sau đó được phân chia đến cho bộ đội trên từng chiến luỹ. Ngoài đường chiếc xe Zép chở mấy tên lính Pháp đi tuần vẫn bắn vu vơ. Anh em đón tết trong chiến hào mà vẫn ấm tình hậu phương.
Rồi trận quyết đấu chợ Đồng Xuân ngày 14-2 năm ấy, chiếc áo cứu thương của bà đã thấm bao máu của chiến sĩ Vệ quốc đoàn, tự vệ, bộ đội Liên khu I. Cũng trong những ngày đêm quyết tử ấy mối tình của bà với anh cán bộ vệ quốc đoàn Đỗ Đình Sửu đã nảy nở. Họ cùng nhau hẹn ước lập nhiều chiến công, chờ khi hoà bình sẽ làm đám cưới. Và bà đã hoà mình vào đoàn quân 1.200 người trong cuộc lui quân thần kỳ đêm 17-2 qua bãi sông Hồng lên bến sông Tứ Tổng (Tứ Liên – Tây Hồ) cùng với lời hẹn ước của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô: "Ra đi hẹn ngày về"
Ra đi hẹn ngày về
Lần giở từng trang cuốn Những hình ảnh Trung đoàn Thủ đô Liên khu I Anh hùng, Đại tá Nguyễn Trọng Hàm – Nguyên Phó tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Quân khu Thủ đô-Chiến sĩ quyết tử trong trận chiến đấu 60 ngày đêm năm xưa, giới thiệu: Đây là những chuyến đò chở bộ đội qua bến Tứ Tổng sang Dâu Canh năm ấy... Và trận đánh của tự vệ Đông Thành bỗng hiện ra trước mắt ông...
Từ sáng sớm ngày 7/2/1947 địch tấn công vào Hàng Nón, Bát Đàn, Hàng Thiếc. Chúng chiếm nhà Nguyên Cát số 24 Bát Đàn, nhà Kim Quy số 35 Hàng Nón và đặt súng máy khống chế suốt dọc đường Hàng Thiếc, Thuốc Bắc. Ta và địch giành giật nhau từng căn nhà, thước đất. Đến quá trưa, chúng đã chiếm được dãy nhà bên số chẵn phố Hàng Thiếc, đặt súng máy trên gác hai nhà Khôi Ký số 18 bắn sang dãy số lẻ. Ông Hàm lúc đó với cương vị trung đội trưởng, chỉ huy đơn vị đảm nhiệm tuyến chiến đấu phố Hàng Bồ, Thuốc Bắc ngăn chặn không cho địch đánh ra theo phố Cửa Đông, Hàng Phèn.
Đến ngày 14-2 địch chuyển hướng tấn công, tập trung hoả lực và không quân oanh tạc dữ dội vào khu vực Đồng Xuân nhằm chọc thẳng vào khu trung tâm chỉ huy Liên khu I, từ phố Hàng Đường tiến thẳng Hàng Ngang, Hàng Đào ra bờ hồ Hoàn Kiếm, chia đôi Liên Khu I. Lúc này, ta gặp khó khăn lớn: Đạn trong mỗi khẩu súng trường chỉ còn 7-8 viên. Lương thực chỉ đủ ăn trong có 5 ngày.
Chiều tối 17-2 các cán bộ từ tiểu đội đến trung đội được triệu tập về gác 2 số 65 Thuốc Bắc nhận lệnh và kế hoạch rút quân. Ai nấy đều sững sờ ngạc nhiên vì anh em đang hừng hực khí thế đánh giặc, đã thề sống chết với Thủ đô. Nhận lệnh rút quân, anh em thấy bất ngờ quá. Phải xa Hà Nội ? Trong mỗi người lính Thủ đô lúc ấy trào dâng cảm xúc khó tả. Biết đến bao giờ mới trở về... Anh em ai nấy rưng rưng. Rồi không ai bảo ai mỗi người tự tìm lấy những hòn than, vôi, sơn màu viết lên tường nhà, trên mỗi tuyến phố mà họ đi qua hàng chữ: Ra đi hẹn ngày về.
Đêm 17-2 giữa mưa phùn gió bấc, đường trơn, 1.200 cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô đã lặng lẽ thoát khỏi vòng vây quân thù, dọc theo bãi Phúc Xá lên Tứ Tổng, Tầm Xá qua sông Hồng...
Những tự vệ Tứ Tổng chèo đò qua sông đêm 17 rạng ngày 18-2 lịch sử ấy...
Ông Trần Văn Ty ở cụm dân cư số 5 phường Từ Liên nay đã 76 tuổi là một trong những tự vệ trẻ nhất chèo đò chở bộ đội qua sông kể:
"Năm ấy tôi mới 19 tuổi làm liên lạc viên. Hàng ngày chúng tôi vẫn chở đò đưa dân nội thành đi tản cư sang Phúc Yên. Từ ngày 26/1/1947 cứ chiều tối chúng tôi đón mấy chuyến thực phẩm từ Đông Anh gồm: Thịt bò, thịt lợn, bắp cải, su hào... chở sang cho đội tự vệ bãi Phúc Xá, Yên Phụ để họ đưa qua chân cầu Long Biên, phố Hàng Mắm vào chợ Đồng Xuân tiếp tế cho bộ đội trong thành, khoảng 2-3 giờ sáng các anh mới quay trở ra. Lấy bật lửa làm tín hiệu, bật lên 3 lần, chúng tôi mới ra đón.
Tối ngày 14-2 trên chuyến đò tôi chở có anh Hoạch và 2 đồng chí nữa đi vào nội thành, chờ mãi vẫn không thấy trở ra. Chiều muộn ngày 17-2 anh em chúng tôi dong thuyền xuôi xuống gần đầu cầu Long Biên, gặp anh Hoạch quay lại. Tôi chở anh Hoạch về bến. Anh huy động tự vệ mang hết thuyền ra bến, nhưng cũng không biết là chở ai, chở cái gì vì bí mật quân sự..."
Ông Trần Đức Hán nay đã 79 tuổi ở tổ 10 cụm dân cư số 2 phường Tứ Liên-là người đã từng tham gia bảo vệ trận đánh sân bay Bạch Mai hồi tháng giêng năm 1950 kể tiếp:
"Hồi đó tôi là tiểu đội trưởng tự vệ. Khoảng hơn 7 giờ tối ngày 17-2 nhận được lệnh mang thuyền ra sông, tiểu đội tự vệ chúng tôi huy động được 6 chiếc thuyền khiêng ra bãi. Nhiều chiếc thuyền để khô bị dò nước chảy vào ri rỉ, phải lấy giẻ trét lại. Các tiểu đội khác cũng khiêng thuyền ra, đậu kín bãi khoảng hơn 40 chiếc. Hơn 10 giờ đêm, những chuyến đò đầu tiên chở bộ đội rời bến. Mặt sông đò qua lại như mắc cửi. Mỗi chiếc thuyền ba nan chỉ chở được có 6 người thế nên đến sáng ngày 18-2 mới đưa hết bộ đội qua sông. Đồng chí Đỗ Chí chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô là người cuối cùng qua sông, mừng quá đốt 1 bánh pháo suýt bị lộ. Địch đóng ngay ở bốt Đình Nội không hề hay biết. Về sau anh Chí bị kỷ luật về hành vi này.
Tứ Tổng là một cù lao nổi giữa sông Cái và sông Con, mọc đầy lau sậy. Bộ đội tập kết xong đồng chí Hoàng Phương hỏi tôi:
- Đã an toàn chưa?
- Dạ thưa, chưa an toàn đâu ạ - Tôi đáp.
Đồng chí Phương đi kiểm ra một vòng quanh bãi thấy không an toàn, về lập tức ra lệnh rút quân tiếp. Bộ đội tiếp tục rẽ lau sậy lên Tầm Xá. Anh em chúng tôi khiêng thuyền qua cù lao chèo lên nơi bộ đội tập kết".
Ông Đinh Văn Bào nay đã 83 tuổi, lúc đó là trung đội trưởng tự vệ Tứ Tổng tiếp tục câu chuyện:
- "Sáng sớm hôm 19-2, sương mù dày đặc, cách vài mét đã không nhìn rõ mặt nhau. Đoàn quân lại tiếp tục lên thuyền từ Tầm Xá sang Dâu Canh (Đông Anh) 1.200 đồng chí sang sông vào vùng tự do an toàn.
Nhưng quân Pháp đã phát hiện ra Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội. Chúng huy động đại bác bắn vào bãi và nhà dân. Ca nô, tầu thuỷ chở đầy lính Pháp đi càn đậu ngay tại bến Tứ Tổng, nơi mà Trung đoàn Thủ đô vừa tập kết hôm trước.
Tự vệ chúng tôi chèo đò quay lại chiến đấu. Máy bay Pháp ào đến, xả súng bắn xuống đoàn thuyền".
- Đồng chí Hoàng Giai ngồi ở đầu thuyền bị trúng đạn vào vai - ông Trần Văn Hán tiếp lời - Đồng chí Diệu trúng đạn lộn xuống sông, mất xác. Tôi xé áo băng cho anh Giai nhưng máu ra nhiều nên anh đã hy sinh.
- Còn ông Nguyễn Bá Miên cố bơi được vào bờ, lên đến bến bị Tây bắt được. Chúng khám trong người thấy có giấy chứng nhận tự vệ. Chúng xả súng bắn chết ngay trên bãi Tầm Xá. - Ông Bào kể tiếp - Chúng càn vào làng, chỉ còn có tiểu đội của đồng chí Nguyễn Ngọc Lại là bám trụ chiến đấu.
- Anh Lại lúc ấy trong tay chỉ có 1 thanh kiếm Nhật, 1 khẩu súng lục, 1 khẩu súng trường và mấy quả lựu đạn. - Ông Ty tiếp lời - 3 xe tăng càn đến, anh Lại bị trúng đạn hy sinh ngay tại công sự. Sau trận càn anh em tìm xác anh, trên tay vẫn còn cầm quả lựu đạn.
Trận càn năm ấy chúng đã bắn pháo, đốt cháy hàng trăm nóc nhà, bắn chết 29 người. Trong đó có 5 chiến sĩ tự vệ Tứ Tổng. Mãi đến năm 1995 bà con Dâu Canh làm ruộng, phát hiện ra 1 hài cốt. Ông Hán xác nhận đó là hài cốt của anh Giai vì trên bả vai vẫn còn 1 đầu đạn và chiếc thắt lưng nhựa mầu đỏ của anh vẫn còn. Anh được suy tôn là liệt sĩ.
- Sau trận càn ấy, địch rút đi tôi trở lại công an quận 4 hoạt động bí mật trong lòng địch hậu - Ông Đinh Văn Bào kể tiếp - Đến năm 1952 tôi bị lộ. Tây bắt giam ở nhà Tiền (Nhà máy in Tiến Bộ). Hơn 1 năm sau, khi giải phóng Bắc Ninh xong, phong trào phá tề trừ gian nổi dậy, tôi mới được thoát ngục tiếp tục hoạt động cho đến ngày tiếp quản thủ đô.
Bãi giữa, nơi tập kết của Trung đoàn thủ đô năm xưa đến nay đã bị lở nhiều, chỉ còn khoảng hơn 40ha đất trồng quất và ngô 1vụ. Ngô nếp Tứ Tổng dẻo, thơm ngon toả đi khắp phố phường trong bữa quà sáng của người lớn, trẻ con. Bến Tứ Tổng xưa, nay tấp nập kẻ bán người mua đồ sứ: Chậu, bình, lọ hoa... từ Quảng Ninh, Bát Tràng theo đường thuỷ lên, từ Phù Lãng (Hà Bắc) sang. Từ đây, hoa sứ vào phố, lên xe Huyn đai đi các tỉnh khác. Quất Tứ Liên quả to, lá dầy xanh biếc vẫn chiếm vị trí số một trong mắt người sành chơi hoa, cây cảnh ngày tết. Người Tứ Liên vẫn giữ nét đẹp truyền thống của người dân gốc Hà Thành và ngày Giỗ trận 29 tháng giêng hàng năm vẫn được nhân dân tổ chức long trọng, để ghi nhớ một thời chiến tranh.
Nguyễn Thị Tâm Bắc
Ghi theo lời kể của các nhân chứng