Người Thăng Long - Hà Nội di cư
Giới trẻ - Ngày đăng : 03:57, 21/12/2014
Nhường đất mở mang kinh thành
Từ vài trăm năm nay, đúng ngày 7 tháng Giêng hằng năm, dân vùng Yên Hưng, Quảng Ninh lại tổ chức lễ hội Tiên Công tưởng nhớ đến các tiên hiền đã đến vùng đất này khai canh lập ấp. Lễ hội Tiên Công ở Yên Hưng có những khác biệt với so với các vùng khác. Một trong những phần lễ quan trọng nhất chính là màn rước các bô lão. Các cụ đại diện cho các dòng họ phải đẹp lão, khỏe mạnh, tài năng và nhất là đức độ. Họ ăn mặc, tô điểm rất sang trọng và sẽ trở thành niềm tự hào cho dòng họ nếu thể hiện được sự cao sang, đẹp lão hơn các dòng họ khác. Trong dòng lễ rước, các cụ được kiệu trên ngai hay võng che ô lộng rất rực rỡ, tư thế tự hào. Con cháu trong dòng họ đi sau càng đông và càng danh giá sẽ càng làm tôn vinh thêm cho cụ già đại diện.
Thanh niên Hà Nội thu hoạch vụ ngô năm 1977 tại vùng kinh tế mới Nam Ban, huyện Lâm Hà (Lâm Đồng). Ảnh tư liệu |
Qua bia ký, gia phả, thần phả trong vùng và đặc biệt là bia đá có niên đại Hồng Đức ghi nhận công lao lấn biển mở đất của 17 vị Tiên Công và bằng chứng cấp đất cho những chủ làng mới trên đảo. 17 Tiên Công này chính dân gốc phường Kim Liên (quận Đống Đa ngày nay). Thế nhưng họ đang ở đồng bằng quen trồng cấy sao lại kéo nhau ra tận vùng cửa biển? Theo bia ký thì dân làng Kim Liên nghe theo lệnh vua muốn đưa dân ra bảo vệ hải biên hoang vắng và thưa người. 17 người thuộc các dòng họ trong phường đi trước ra thăm đất, nơi mà họ sẽ gắn bó lâu dài. Đó là đảo Hà Nam, một bãi bồi ở cửa sông Bạch Đằng, xung quanh các đượng đất chỉ um tùm sú, vẹt. Khi thủy triều lên cả bãi ngập nước mênh mông chỉ có một số đượng đất cao nhô lên. Rồi từ Hà Nam trở về, các Tiên Công đưa họ hàng cùng gia quyến đi thuyền xuôi dòng sông Hồng, qua sông Luộc về phía vùng biển Hải Phòng ra Quảng Ninh. Theo bia ký là 500 người.
Tại địa phận xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên hiện nay có miếu Tiên Công, hay còn gọi là đền Thập Cửu Tiên Công. Miếu Tiên Công thờ 19 vị là những người có công đầu tiên quai đê, lấn biển thành lập nên khu đảo Hà Nam vào năm 1434. Miếu được khởi dựng từ năm nào không rõ, nhưng thời Gia Long, miếu có kết cấu bằng gạch và đã qua nhiều lần trùng tu. Nhà bái đường và nhà tổ được làm vào tháng 5-1804, trên câu đầu nhà thờ tổ có ghi niên đại xây dựng "Gia Long tam niên trọng hạ nguyệt, cốc nhật thu, thượng trụ thượng lương". Miếu thờ 17 vị Tiên Công lập nên phường Bông Lưu mà sau này đổi thành xã Phong Lưu gồm ba thôn: Cẩm La, Yên Đông và Phong Cốc. Đó là: Vũ Song, Vũ Hồng Tiện, Bùi Huy Ngoạn, Ngô Bách Đoan, Nguyễn Phúc Cốc, Nguyễn Phúc Thắng, Nguyễn Phúc Vinh, Lê Khép, Lê Mở, Vũ Tam Tỉnh, Vũ Giai, Nguyễn Nghệ, Nguyễn Thực, Bùi Bách Niên, Phạm Việt, Dương Quang Tín, Dương Quang Tấn và 2 vị người Trà Lý (Hà Nam) là Hoàng Nông, Hoàng Nênh.
Cuộc di cư của dân phường Kim Liên về phía đông, lấn biển giữ biên cương trong khi dân nhập cư các miền đổ về Thăng Long cho thấy sự hy sinh của họ. Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Vì Đông Kinh ứ dân nên năm 1481, Lê Thánh Tông đã ra chỉ dụ bắt tất cả dân ra sinh sống ở đây phải trở về quê. Một viên quan là Quách Đình Bảo đã can gián để bãi bỏ chỉ dụ này". Ngược dòng lịch sử, có một cuộc di cư lớn của người Thăng Long, đó là dân làng Cơ Xá (nay là các phường ở phía nam hồ Tây). Khi Lý Công Uẩn từ Hoa Lư ra Thăng Long, ngài muốn mở rộng thành nên ra chỉ dụ di dân Cơ Xá ra ven sông Cái (sông Hồng). Dù sao họ cũng còn gần quê gốc hơn dân Kim Liên sau này. Cơ Xá vốn quen cấy lúa trồng màu nay bị đưa ra bãi phù sa nên không có ruộng cấy lúa. Vào mùa mưa lũ, nước ngập hết bờ bãi, dân Cơ Xá chẳng có gì ăn chỉ còn biết trông chờ vào lương thực triều đình cấp phát. Thương dân quê mình (Lý Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn sinh ở làng Cơ Xá) đã xin triều đình cho họ không phải đóng thuế, chở đò ngang, đò dọc không phải chịu thuế, không phải đi làm công cho triều đình. Sự ưu ái này kéo dài cho đến cuối đời Lê mới thôi.
Ba đợt di cư lớn trong thế kỷ XX
Ngày 15-8-1963, tại sân ga Hàng Cỏ diễn ra lễ tiễn đưa 5.000 thanh niên trong "Đội thanh niên Tháng 8 Thủ đô" lên đường đi phát triển kinh tế và văn hóa ở miền núi. Nhóm thì lên tàu hỏa, nhóm đi Tây Bắc thì lên ô tô, họ được phân công đến làm việc tại các nông trường: Tô Hiệu, Chiềng Khương, sông Gâm, An Khánh, Bắc Sơn, Điện Biên, Việt - Trung hữu nghị, Hữu Lũng, Lịnh Sơn, Hồng Quảng… thuộc các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Nghĩa Lộ, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Hòa Bình, Lạng Sơn… Trước khi lên đường, "Đội thanh niên Tháng 8 Thủ đô" được Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh đến nói chuyện và động viên rồi tiếp đó là Bộ trưởng Bộ Nông trường Quốc doanh Nghiêm Xuân Yêm.
Ông Nguyễn Văn Đăng, hiện sống ở thị trấn Mai Sơn (Sơn La) năm nay 70 tuổi, quê gốc ở phường Phương Liệt quận Thanh Xuân kể rằng, bổ sung về Nông trường Tô Hiệu (Sơn La) có 100 thanh niên hầu hết là người quận Đống Đa. Những ngày đầu quả là vất vả, cực nhọc, ở Hà Nội gia đình cũng chẳng phải cao sang, giàu có nhưng chẳng ai quen phát rừng, trồng cây công nghiệp, ngủ thì tập trung, ăn thì bếp tập thể. Những ngày đầu còn được ăn cơm trắng sau đó chỉ có cơm độn ngô hay sắn. Hết mùa măng thì chỉ có muối, thi thoảng mới có tí nước mắm. Mùa đông đầu tiên lạnh thấu xương nhưng mỗi người chỉ có tấm chăn chiên. Có đêm lạnh không ngủ được phải thức dậy đốt lửa. Hộ khẩu "đất thánh" đã cắt, tiêu chuẩn lương thực cũng đã cắt nên chỉ có vài ba người liều mạng cắt đường rừng về Hòa Bình mới có xe về Hà Nội. Những người ở lại gắng chịu đựng, sau cũng quen. Rồi Mỹ đổ quân vào miền Nam, rất nhiều thanh niên Hà Nội tại các nông trường lên đường nhập ngũ. Cũng có người được cử đi học. Lại có nhiều người vào chiến trường và hy sinh. Đến năm 1964, thành phố vận động dân đi khai hoang ở phía Bắc. Cố nhà văn Sao Mai khi đó sống ở bên ngoài đê thuộc quận Hoàn Kiếm tự nguyện dẫn vợ con lên huyện miền núi Thanh Sơn của tỉnh Phú Thọ. Sau này nhiều gia đình không trụ được đã bồng bế nhau bỏ về sống ở gầm cầu Long Biên, chùa Liên Phái…
Một đợt di cư khác diễn ra vào năm 1977. Ông Nguyễn Gia Khải khi đó làm ở phòng Nông nghiệp huyện Từ Liêm kể rằng, năm 1978, huyện đã đưa tổng cộng 55 hộ với 300 nhân khẩu đi máy bay vào Liên Khương sau đó đưa họ đến khu Lán Tranh và Nam Ban (nay thuộc huyện Lâm Hà, Lâm Đồng). Rồi huyện lại đưa thêm mấy chục thanh niên vào xây dựng lán trại để tiếp tục đưa bà con vào. Từ năm 1977 đến 1979, Hà Nội đưa vào Lâm Đồng 84.000 lao động, khai phá 25.000ha đất canh tác.
Dù sao người đi khai hoang Tây Bắc hay đi Lâm Đồng là đi theo chủ trương được Nhà nước giúp đỡ, hỗ trợ nhưng người Hà Nội di cư vào Nam sau năm 1954 là điều Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa không mong muốn. Đó là cuộc di cư lớn khi chính quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ tung ra những lời kêu gọi, lôi kéo mang màu sắc chính trị. Theo "Lịch sử truyền thống Công an quận Hoàn Kiếm 1945-2004" thì "năm 1954 có khoảng 15.722 công chức chế độ cũ, trí thức vào Nam. Tổn thất nhất là ngành giáo dục, 50% số giáo viên đi Nam, y tế chỉ còn 935 bác sĩ và nhân viên so với 1.574 người trước giải phóng".
Di cư và nhập cư là hai quá trình diễn ra song hành ở các đô thị từ thời phong kiến cho đến nay. Và Hà Nội hiện nay vẫn diễn ra di cư lẻ tẻ, không chỉ có lý do kinh tế mà còn có cả lý do khác trong đó có sự ồn ào và quá đông đúc.