Tỉnh Hà Nội và thành phố Hà Nội
Giới trẻ - Ngày đăng : 06:00, 14/12/2014
Từ tỉnh Hà Nội đến tỉnh Hà Đông
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), ông vua này tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn nhất kể từ khi ra đời chế độ phong kiến Việt Nam. Minh Mạng xóa bỏ Bắc Thành (gồm 11 trấn và 1 phủ trực thuộc) ở miền Bắc và lập tỉnh Hà Nội. Như vậy Hà Nội trở thành một tỉnh như 30 tỉnh khác trên đất Việt Nam. Và phủ Hoài Đức trở thành một trong bốn phủ hợp thành tỉnh Hà Nội. Tên Hà Nội có nghĩa phía trong sông vì thực tế Hà Nội được bao bọc bởi sông Hồng ở phía Đông bắc và sông Đáy ở phía Tây nam.
Hà Nội những năm đầu thế kỷ XX. Ảnh tư liệu |
Bốn phủ của tỉnh Hà Nội gồm: Hoài Đức (có 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm), Phủ Thường Tín (gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì và Phú Xuyên), Phủ Ứng Hòa (gồm 4 huyện: Sơn Minh nay là Ứng Hòa, Hoài An nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức, Chương Đức - nay là Chương Mỹ và Thanh Oai), Phủ Lý Nhân (gồm 5 huyện: Nam Xang - nay là Lý Nhân, Kim Bảng, Duy Tiên, Bình Lục và Thanh Liêm). Các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng, việc Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội ngoài lý do loại bỏ hẳn địa giới hành chính lập ra từ nhà Tây Sơn và sau đó Gia Long còn để dân chúng và cánh sĩ phu quên dần nhà Tây Sơn, vốn được yêu trọng ở Bắc Hà.
Dù các đời vua sau Minh Mạng là Thiệu Trị, Tự Đức có thay đổi số tổng, xã, thôn nhưng cơ bản tỉnh Hà Nội vẫn bao gồm các huyện như thời Minh Mạng. Song đến năm 1875, tỉnh Hà Nội không còn nguyên vẹn vì trước sức ép của người Pháp, vua Tự Đức phải cắt hơn 18ha của huyện Thọ Xương cho Pháp lập khu lãnh sự (còn gọi là khu nhượng địa Đồn Thủy, nay tương ứng khu vực Bệnh viện 108 đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia). Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ 2 (1882) rồi chiếm hết huyện Thọ Xương, địa giới hành chính tỉnh Hà Nội có sự thay đổi lớn. Họ lập tòa công sứ năm 1883 ở phố Hàng Gai, thiết lập các cơ quan cai trị, cho xây nhà làm việc vào năm 1885 để phục vụ cho mục đích bình định toàn xứ Bắc kỳ. Những việc làm này cũng là bước chuẩn bị cho việc ra đời thành phố nhượng địa (concession) Hà Nội trên đất tỉnh Hà Nội.
Năm 1888, vua Đồng Khánh buộc phải ra chỉ dụ cắt toàn bộ huyện Thọ Xương, một phần nhỏ huyện Vĩnh Thuận cho Pháp lập thành phố nhượng địa. Hai năm sau, tháng 10-1890, tỉnh Hà Nội tiếp tục bị thu hẹp khi vua Thành Thái lấy toàn bộ Phủ Lý Nhân lập tỉnh Hà Nam. Ngày 26-1-1896, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định do chánh thư ký của quan toàn quyền là J.Foures ký chuyển trị sở tỉnh Hà Nội vào vùng đất làng Cầu Đơ thuộc tổng Thanh Oai Thượng, huyện Thanh Oai. Thực hiện ý đồ biến toàn cõi Đông Dương thành thuộc địa, Quốc hội Pháp quyết định lấy thành phố nhượng địa Hà Nội làm thủ đô của Liên bang Đông Dương (bao gồm: Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ, Lào và Campuchia) không thể có một tỉnh trùng tên với tên thủ đô nên ngày 3-5-1902, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã ra nghị định đổi tỉnh Hà Nội thành tỉnh Cầu Đơ. Vì Cầu Đơ là tên nôm của một làng giờ mang đặt tên cho tỉnh lớn nằm ngay sát thủ đô của Liên bang Đông Dương nên có nhiều ý kiến đề nghị Toàn quyền Đông Dương cho đổi tên khác. Và ngày 6-12-1904, quan toàn quyền đã ra nghị định đổi tên Cầu Đơ thành Hà Đông. Theo sử sách ghi lại, tên này do thám hoa Vũ Phạm Hàm đề xuất và được chấp thuận - khi đó ông đang giữ chức đốc học tỉnh Cầu Đơ. Người hay chữ suy đoán tên Hà Đông có thể xuất xứ từ câu của Mạnh Tử: "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ túc ư Hà Nội" (nghĩa là Hà Nội bị tai họa thì đưa dân về Hà Đông, chuyển thóc từ Hà Đông ra Hà Nội). Trong cuốn "Hỏi đáp 1000 năm Thăng Long - Hà Nội", hai tác giả là Tô Hoài và Nguyễn Vinh Phúc giải thích về câu của Mạnh Tử như sau: "Nguyên ở Trung Quốc thời Mạnh Tử (thế kỷ thứ III trước công nguyên) phía bắc sông Hoàng Hà gọi là đất Hà Nội, phía nam là Hà Ngoại. Vùng đất ấy nay ứng với tỉnh Hà Bắc. Lại do sông Hoàng Hà khi tới địa đầu tỉnh Sơn Tây ngày nay thì chảy theo hướng bắc - nam, trở thành ranh giới của 2 tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Sơn Tây ở phía đông sông Hoàng Hà nên thời cổ gọi là đất Hà Đông còn Thiểm Tây là Hà Tây". Về mặt địa lý, cái tên Hà Đông đúng ra phải đặt cho tỉnh Hải Dương vì xưa kia Hải Dương vẫn được gọi là xứ Đông hoặc miền Hải Đông. Còn vùng đất Cầu Đơ nằm ở phía tây và nam thành phố Hà Nội thì nên đặt là Hà Tây. Tuy nhiên ở phía tây đã có tỉnh Sơn Tây và phía nam lại có tỉnh Nam Hà vì thế tên Hà Đông có xuất sứ từ câu của Mạnh Tử xem ra cũng có lý. Tỉnh Hà Đông khi đó gồm 3 phủ cũ mà gọi theo tên ngày nay là các huyện: Hoài Đức, Từ Liêm, Đan Phượng, Thanh Trì, Thường Tín, Thanh Oai, Ứng Hòa, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Phú Xuyên.
Và thành phố Hà Nội
Ngày 1-10-1888, vua Đồng Khánh ra chỉ dụ cắt đất tỉnh Hà Nội cho Pháp làm thành phố nhượng địa Hà Nội. Thực ra chỉ dụ đó chỉ là hợp thức hóa những quyết định mà người Pháp đã làm trước đó.
Trong phiên họp Hội đồng bảo hộ Bắc kỳ ngày 2-5-1886, Tổng trú sứ Paul Bert đã tuyên bố: "Hà Nội sẽ ngày càng trở thành một thành phố Châu Âu, phải mau chóng xây dựng các công trình giao thông, nhà cửa, chợ búa, lò mổ. Để chỉ huy công việc này cần phải có một chính quyền coi sóc đặc biệt cho Hà Nội. Chính quyền này chỉ có thể là một ủy ban thành phố". Tuyên bố đó cho thấy Chính phủ Pháp đang thực hiện ý đồ biến một phần đất tỉnh Hà Nội thành thành phố nhượng địa. Ngày 19-7-1888, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định, theo đó đứng đầu thành phố Hà Nội và Hải Phòng là đốc lý kiêm chủ tịch hội đồng thành phố. Chức vụ này dành riêng cho người Pháp do thống sứ Bắc kỳ đề xuất và Toàn quyền Đông Dương ra quyết định bổ nhiệm. Giúp việc cho đốc lý còn có hai cấp phó. Còn hội đồng thành phố gồm 16 người nhưng chỉ có 4 người Việt còn lại là người Pháp. Nghị định cũng quy định: Hội đồng thành phố họp mỗi năm bốn lần để quyết định các vấn đề và nó chỉ có giá trị khi được thống sứ thông qua.
Tháng 9-1888, thống sứ cho lập một bản đồ vẽ tay chỉ giới thành phố Hà Nội, theo bản đồ này, ranh giới phía bắc với tỉnh Hà Nội là hồ Trúc Bạch, phía nam là khu nhượng địa Đồn Thủy, phía tây là thành Hà Nội và Văn Miếu. Diện tích thời kỳ đầu là 945ha với dân số là 100.000 người. Thành phố chia ra làm 8 hộ và hộ phố (tương đương như chủ tịch phường hiện nay) thay mặt dân quan hệ với nhà chức trách. Hội đồng thành phố khóa đầu cũng cho đúc huy hiệu, huy hiệu hình tròn, hai bên có hai con rồng, ở giữa nhô lên thanh kiếm trên cao là mặt trời mầu đen, xung quanh là tường thành. Không rõ người Pháp hay người Việt vẽ nhưng huy hiệu có tính biểu trưng khá cao khi sử dụng truyền thuyết và di tích lịch sử Thăng Long.
Dù trở thành thành phố nhưng những ngày đầu Hà Nội vẫn là thành phố bảo hộ, chưa thực sự là thuộc địa nên vẫn còn nha huyện Thọ Xương mà lỵ sở ở thôn Tiên Thị (nay tương ứng với phố Ngõ Huyện) để giải quyết những việc như: Thu thuế, điều tra xét hỏi, giải quyết các tranh chấp... Tuy nhiên đến tháng 6-1896 chức này bị xóa bỏ, sau đó thành lập nha hiệp lý chỉ để giải quyết vấn đề tư pháp nhưng bị xóa bỏ ngay vì thành phố đã có tòa án.
Vì an ninh chưa được bảo đảm do nghĩa quân của Đề Kiều và Đốc Ngữ thỉnh thoảng từ Sơn Tây và tỉnh Hưng Hóa vào quấy nhiễu nên toàn quyền cho lập vùng ngoại ô (Zone suburbaine autour de Hanoi) để làm "rào chắn" cho nội đô. Ngoại ô gồm một phần các xã của huyện Vĩnh Thuận, huyện Thanh Trì. Đến năm 1915, tình hình an ninh Hà Nội được cải thiện, nội đô an toàn hơn nên chính quyền Pháp trả vùng ngoại ô về tỉnh Hà Đông và đặt tên là huyện Hoàn Long. Một sự kiện lớn xảy ra năm 1902 làm thay đổi tư thế của thành phố là Quốc hội Pháp đã quyết định Hà Nội là thủ đô của Liên bang Đông Dương (gồm Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung kỳ, Lào và Campuchia).
Từ năm 1902 đến 1945 dù chính sách có những thay đổi nhưng địa giới Hà Nội cơ bản không đổi. Hà Nội vẫn là thành phố thuộc địa, chịu điều chỉnh theo các luật của nước Pháp.