Làng Phú Thứ và ba vị thần họ Nguyễn

Xã hội - Ngày đăng : 08:33, 17/08/2004

Trước đây, Phú Thứ  là một thôn của xã Đại Mỗ. Khoảng đầu thế kỷ XX, Phú Thứ được tách thành xã riêng. Nay làng Đại Mỗ thuộc xã Đại Mỗ, còn thôn Phú Thứ thuộc xã Tây Mỗ huyện Từ Liêm. Dẫu hai làng thuộc hai xã nhưng từ xưa vẫn có quan hệ thân tộc gần gũi. Hai làng cùng thờ 3 vị thần họ Nguyễn, danh nhân văn hóa thế kỷ XVIII.

Đông về -ảnh chụp hàng cây bên làng Phú Thứ của Võ An Ninh (1935)

Trước đây, Phú Thứlà một thôn của xã Đại Mỗ. Khoảng đầu thế kỷ XX, Phú Thứ được tách thành xã riêng. Nay làng Đại Mỗ thuộc xã Đại Mỗ, còn thôn Phú Thứ thuộc xã Tây Mỗ huyện Từ Liêm. Dẫu hai làng thuộc hai xã nhưng từ xưa vẫn có quan hệ thân tộc gần gũi. Hai làng cùng thờ 3 vị thần họ Nguyễn, danh nhân văn hóa thế kỷ XVIII.

Nằm ở phía Tây kinh thành, người vùng Mỗ nổi tiếng cần cù. Nếu Đại Mỗ có nghề dệt lĩnh thì người Phú Thứ có nghề làm chỉ, giọt trang kim, hàn thiếc. Trong kháng chiến chống Pháp, người Phú Thứ tản cư đi khắp nơi, nhờ có nghề phụ mà dân làng có cuộc sống ổn định. Bây giờ người Phú Thứ một năm chỉ làm ruộng 4 tháng, thời gian còn lại làm các nghề phụ. Phú Thứ ở vị trí giao thương thuận tiện nên người dân có đầu óc nhạy bén, năng động. Ngày trước cụ Khôi Ký đã truyền nghề làm trang kim cho làng, sau cụ trở thành thương gia, trực tiếp buôn bán với người Pháp. Hiện 80% gia đình ở Phú Thứ có người thân ra Hà Nội lập nghiệp, chủ yếu tập trung ở phố Hàng Thiếc.

Vẻ đẹp văn hóa của Phú Thứ tập trung ở ngôi đình làng. Đại bái đình 5 gian. ở các đầu dư, các bức cốn chạm nổi, chạm long hổ phù, tứ linh, hoa lá. Nét chạm mềm mại, tinh xảo. Sau tòa đại bái là hậu cung 3 gian làm năm 1933. Tại đây còn giữ được nhiều di vật như bát hương cổ màu lam, chóe đựng nước, long đao sơn son thếp vàng, một số hoành phi, câu đối.

ở hậu cung đặt 4 ngai thờ. Ngai lớn thờ Đức Thành hoàng làng, dân kiêng húy chỉ gọi là Đức Thánh Cả. Ba ngai bên có bài vị Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý Ân, Nguyễn Quý Kính là ba cha con,ông cháu học giỏi, đỗ cao, làm quan tới hàng cực phẩm, để lại nhiều chính tích.

Nguyễn Quý Đức (1648 - 1720) đậu Thám hoa đời Vĩnh Trị 1676. Khi giữ chức Tể tướng, ông sống khoan hòa, nuôi sức dân, giảm tô thuế, kiên quyết trừng trị bọn nhũng lạm, xử án nghiêm minh nên được dân ca ngợi: “Tể tướng Quý Đức, thiên hạ yên vui”. Năm 1708, ông được cử đứng ra sửa chữa Văn Miếu với quy mô lớn. Năm 1717, cùng với viết văn bia cho chùa Hàm Long, ông đứng ra trông coi dựng 20 tấm bia tiến sĩ từ khoa thi năm 1656 đến khoa thi năm 1715 đặt tại Văn Miếu.

Cùng năm ấy, ông dâng sớ hai lần, lời lẽ khẩn thiết, rằng ông muốn nhường chỗ thử tài cho lớp người sau, Chúa cho là phải mới ưng cho về trí sĩ. Sử gia Phan Huy Chú viết: “Ông được gia Thái phó Quốc lão, tham dự chính sự. Lại ban cho xe ngựa, ruộng lộc. Sau khi về hưu, rong chơi ở chốn quê hương, lại dựng đình Lạc Thọ ở bờ sông làm chỗ vui chơi”. ở quê, ông còn cho lập chợ, sửa sang cầu cống, đình chùa. Để dân khỏi sa đà vào các tệ tục, ông cho soạn lại hương ước, quy định việc tế lễ ma chay sao cho giản dị mà vẫn cung kính.

Nối đức tốt của cha, con trưởng ông là Nguyễn Quý Ân (1673 - 1722) đậu Hoàng Giáp năm 1715. Năm 1713 vì lụt lội, mất mùa, ông đi phát chẩn ở vùng Thanh Trì, Thanh Oai, Thượng Phúc, Phú Xuyên được dân dâng sớ tôn vinh công đức. Năm 1717 ông được thăng Tham tụng. Nguyễn Quý Ân là người nổi tiếng có tài bút thiếp. Ông có tậpThiên tự văncấp cho học sinh cả nước làm khuôn mẫu. Năm 1718 triều đình mở cuộc thi soạn sách học cho các thế tử, ông đoạt giải nhất. Năm 1719 khảo xét công trạng các quan, ông được phong hạng nhất. Ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Dần 1722 ông mất, thọ 50 tuổi. Triều đình cấp hàng ngàn quan tiền và cử quan khâm sai về tế lễ, cho thờ làm phúc thần ở bản xã.

Cháu đích tôn của Nguyễn Quý Đức là Nguyễn Quý Kính (1693 - 1766) có công phò Trịnh Doanh giữ yên ngôi chúa nên được làm đến Tham tụng, Thượng thư bộ Lễ. Trong cuộc đời, ông đã cùng Vũ Công Tể làm Chiêu Phủ Sứ đi các đạo khuyên dân làm ruộng, trồng dâu và chiêu dụ dânphiêu tán đến khai khẩn các vùng đất hoang. Năm 75 tuổi, Quý Kính mất, được phong tặng Đại tư đồ Huyên trung công.

Ơn đức của ba cha con, ông cháu họ Nguyễn Quý tỏa một vùng rộng. Nhân dân các làng Đại Mỗ, La Cả, La Khê, Phú Thứ… đều thờ bavị làm thành hoàng.

Ở Phú Thứ, ngoài đình làng, dòng họ còn có đền thờ Nguyễn Quý Đức và Nguyễn Quý Kính. Hai ngôi linh từ kiến trúc hình vuông, hai tầng tám mái. Phần kết cấu gỗ còn khá tốt, mái lợp ngói ống, bốn mái có đầu đao cong. Trước mỗi ngôi đền đều có vườn cây, đặt hai ngựa đá, hai con chó đá được tạo tác rất đẹp. ở đền thờ Nguyễn Quý Đức có biển gỗ sơn son khắc 3 chữ Hán “Lạc Thọ đình” tạo năm Vĩnh Thịnh 1711. Đây chính là nơi tĩnh dưỡng của Nguyễn Quý Đức khi về nghỉ tại quê nhà. Quốc lão Đặng Đình Tướng, Thượng thư trí sĩ Nguyễn Đương Bao người làng Tây Mỗ thường tới đây cùng ông xướng họa thơ văn. Mùa đông năm Kỷ Hợi 1719 chúa Trịnh Cương đã về Lạc Thọ đình thăm Nguyễn Quý Đức và tặng ông bài thơ.

Hàng năm, hội đình Phú Thứ tổ chức vào ngày 10 tháng giêng âm lịch, hàng ngàn người dân trong vùng đã đến tưởng niệm “Tam vị đại vương”.

Tháng 1-1999 đoạn đường dài 660m nối đường Nguyễn Trãi với Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã được HĐND thành phố đặt tên là Nguyễn Quý Đức.

HNM

ANHTHU