Một Hà Nội ngoài đê sông Hồng

Giới trẻ - Ngày đăng : 06:50, 11/10/2014

(HNM) - Lâu nay, nói đến Thăng Long - Hà Nội, dường như ít ai nghĩ đến phần đất ngoài đê. Nhưng bãi bồi này từ xa xưa đã là một phần của Thăng Long - Hà Nội…


Chìm nổi bãi bồi

Sông Hồng đoạn chảy qua Thăng Long - Hà Nội uốn lượn quanh co như nhĩ tai nên người xưa gọi là Nhĩ Hà. Vì quanh co nên dòng chảy cũng bị thay đổi liên tục từ đó đã tạo ra nhiều bãi bồi. Trước thời nhà Lý, dân chúng hai bên bờ sông Hồng, Tô Lịch đã đắp đê ngăn nước tràn vào đồng để bảo vệ thành quả lao động của mình.Tuy nhiên đê cách đây hơn nghìn năm không sừng sững như bây giờ, nó chỉ là bờ vùng bao quanh đồng ruộng. Năm mưa nhiều, lũ lớn nước tràn qua bờ gây ngập lụt xóm làng ven sông. Mất mùa nhưng bù lại cá tôm theo nước vào đồng mang lại nguồn thực phẩm vô cùng dồi dào cho nông dân. Và khi nước rút để lại lớp phù sa mầu mỡ khiến lúa hay ngô khoai tốt hơn.

Bãi nổi sông Hồng. Ảnh: Hoàng Hà



Khi vua Lý Thái Tổ dời Hoa Lư ra định đô bên sông Hồng và sông Tô Lịch, xây thành Thăng Long trên nền thành Đại La đổ nát thì đê đoạn qua Thăng Long được đắp cao hơn, vì nhiều năm nước tràn cả vào thành qua cửa Đại Hưng (nay là khu vực chợ Cửa Nam). Đê cao lên chặn dòng chảy làm nhiều đoạn bãi bồi rộng hơn nhưng cũng làm nhiều chỗ quanh năm nước sát chân đê. Khi vua Lý Thái Tổ xây thành thì một phần đất của phường Yên Xá (phía nam Hồ Tây) phải di rời ra ngoài đê sông Hồng. Làng mới có tên là Yên Xá Châu. Tuy nhiên năm Thuận Thiên thứ 5 (Nhâm Tý 1132), Lý Nhân Tông cho đổi tên thành phường Cơ Xá và sáp nhập vào đất Kinh Bắc. Phường Cơ Xá kéo dài từ Yên Hoa (tên cũ của làng Yên Phụ) xuống đến đê Bình Lao (nay là khu vực Lương Yên) còn chiều rộng gồm cả bãi bồi bên kia sông.

Nằm ngay sát thành Thăng Long, chỉ vì cách con đê mà thân phận phường Cơ Xá long đong, đời vua này thuộc đất Thăng Long, đến đời vua khác lại sang đất Kinh Bắc. Khi vua Tự Đức lên ngôi (1847), Cơ Xá thuộc huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội, tuy nhiên 3 năm sau, năm 1851, Kinh lược xứ Nguyễn Đăng Giai lại sáp nhập vào huyện Gia Lâm của phủ Bắc Ninh. Thời Pháp chiếm Hà Nội, mảnh đất này cũng bị chuyển qua chuyển lại nhiều lần khi chính quyền phân chia lại địa giới hành chính. Năm 1911, những thôn ở phía gần nội đô được gọi là Phúc Xá (gồm các bãi An Dương, Nghĩa Dũng và Phúc Xá phần dưới cầu Long Biên) thuộc Hà Nội, còn các thôn ở phía bên Gia Lâm gọi là Cơ Xá Nam.

Việc chia đôi phường khiến người dân không hưởng ứng vì họ còn quan hệ họ hàng, phe giáp. Dân Phúc Xá không muốn sáp nhập với làng Ngọc Thụy (đất Gia Lâm) vì họ là dân nghèo, sợ các đàn anh làng Ngọc Thụy bắt nạt nên đã lấy cớ đất Ngọc Thụy lắm cướp. Còn Cơ Xá Nam không muốn vào nội thành vì "phải theo luật lệ cảnh sát khắt khe và đóng thuế nhiều". Tuy nhiên trước sức ép của chính quyền nên cuối cùng họ phải chấp nhận.

Dòng chảy sông Hồng thay đổi liên tục khiến bãi bồi cũng thay đổi theo vì thế bãi bồi năm này ở bên này nhưng sang năm khác lại ở phía bên kia. Chỉ có hai bãi ít bị xói lở là Nghĩa Dũng và An Dương, vì thế dân đông hơn, không thưa thớt như bãi mới. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, thuyền chở đá còn vào sát được các lò nung vôi Thạch Khối (nay là phần đất ngoài bãi đầu đường Thanh Niên). Trong bài "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Hữu Lượng sáng tác năm 1801, có câu "Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút/Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ỳ ồ", đến gần cuối của nửa đầu thế kỷ XIX không còn thấy ai nói đến những lò vôi này nữa vì bãi cát đã mở rộng ra phía giữa sông. Trận lụt năm 1913 và 1915 đe dọa chân đê nên chính quyền cho đắp thân, đổ đá kè đê An Dương ngăn không cho nước đổi dòng về phía Hà Nội. Trúng thầu kè đoạn đê này là cô me Tây Laoa (vợ quan Pháp Leroy) và Bạch Thái Bưởi. Vì kè đoạn đê này nên dòng chảy bị uốn làm bờ bên Gia Lâm bị lở còn phía Hà Nội thì cát lại bồi. Cuối thế kỷ XIX, Bãi Giữa và Phúc Xá còn liền nhau, dâu bạt ngàn sát vào chân đê. Bãi Giữa kéo dài đến tận Đồn Thủy, tàu bè nào muốn vào Giang Khẩu (khu vực bến Bạch Đằng ngày nay) phải vòng hết Bãi Giữa mới rẽ vào lạch để vào bến. Nhưng 10 năm sau, Bãi Giữa phình to, lạch nước vẫn còn nhưng bãi An Dương và Phúc Xá bị hẹp lại. Từ năm 1920 trở đi, bãi cát ngoài bờ sông coi như ổn định. Bãi An Dương, Phúc Xá dài đến chân cầu Long Biên. Bãi Giữa tách khỏi An Dương, Nghĩa Dũng còn con lạch cũ thành dòng chảy của sông Hồng. Phía dưới Đồn Thủy, cát bồi thêm rộng ra. Vì cát bồi nên bến tàu Cột Đồng Hồ không còn sử dụng được và chính quyền buộc phải chuyển bến xuống Bình Lao (thời bao cấp gọi là bến Phà Đen).

Ở đâu có làng là ở đó có đình, có đền chùa nên bãi bồi từ làng Chèm xuống tận Lĩnh Nam đều có nơi thờ tự. Song có năm do nước to lũ lớn đã gây thiệt hại cho các công trình tôn giáo, tín ngưỡng. Thời nhà Lý, đình Lãng Bạc (nay thuộc phường Phú Thượng quận Tây Hồ) nằm ngoài đê, nước to cuốn trôi cả đình. Giữa thế kỷ XIX, nước sông Hồng lên to làm xói lở đê Đồng Nhân nên dân làng này phải chuyển đền thờ Hai Bà Trưng vào trong đê. Cuối thế kỷ XIX, khi xây cầu Long Biên, đền Bà Móc đã bị phá bỏ để xây đầu cầu bên này. Năm 1902, nước sông Hồng lên to khiến cho đình Chèm (thuộc xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm) bị ngập sâu trong nước gây nên vừa bị lún vừa bị nghiêng. Để cứu ngôi đình đẹp, có tam quan quay về hướng bắc thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng - một nhân vật huyền thoại và Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung, các bô lão trong làng đã chọn phương án "kiệu đình" và may mắn ngôi đình vẫn còn cho đến ngày nay.

Vất vả cuộc sống ngoài bãi

Dân gian có câu "Nhất cận thị, nhị cận giang". Phường Cơ Xá xưa có đủ hai yếu tố này thế nhưng cuộc sống của dân chúng lại quá gian nan, vất vả. Đất ngoài bãi rộng nhưng là phù sa nên không thể cấy lúa nước mà chỉ có thể trồng dâu, ngô khoai hay rau màu. Vào mùa mưa, nước lũ dâng cao hoa mầu không kịp thu hoạch bị chìm trong nước. Dân chỉ còn cách bắt con cá con tôm sống qua ngày chờ nước rút quay về dựng lại nhà rồi đợi đến vụ gieo trồng. Theo nhà nghiên cứu Vũ Tuân Sán, quả chuông ở chùa Bắc Biên (nay thuộc phường Ngọc Thụy, quận Long Biên) đúc năm 1690 đã ghi lại "Lý Thường Kiệt (thời niên thiếu tên là Ngô Tuấn), sinh ra ở Yên Xá" thấy dân làng mình ra lập nghiệp ở ngoài đê mưu sinh vất vả vì không có đất trồng cấy ngài đã dâng sớ và triều đình nhà Lý chấp thuận miễn thuế và tạp dịch cho dân, lại cho được phép thu tiền đò ngang, đò dọc và lệ này kéo dài mãi đến cuối đời Lê. Nhớ công ơn của ngài, dân chúng các làng phường Cơ Xá đã thờ ông làm thành hoàng.

Trước khi Pháp chiếm Hà Nội, dân sống ngoài bãi thưa thớt, dân nhập cư phần lớn đều có nghề thủ công nên họ lập nghiệp trong phố. Tuy nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu XX, dân nhập cư vào Hà Nội không nghề nhiều hơn, không có tiền để mua nhà đất trong phố nên chọn bãi làm nơi cư ngụ. Thời Pháp thuộc, An Dương, Phúc Xá có tên gọi chung là Bãi Cát (banc de sable). Về hành chính, thống sứ Bắc Kỳ đã gộp cả Bãi Giữa vào làng Phúc Xá và lúc thì Phúc Xá thuộc về huyện Gia Lâm, khi lại thuộc về nội thành. Bãi Cát cũng có một lý trưởng (tương đương trưởng phố) và quản tuần. Trong cuốn "Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX", nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn viết: "Dân bãi từ nhiều nơi đến, trong đó phần đông là người gốc Đanh, Xuyên (huyện Phú Xuyên) chuyên làm nghề kéo xe tay, xe bò hoặc người nghèo vùng chiêm trũng Hà Nam, Thái Bình. Trong phố cũng có người ra đây do thành phố quy hoach khu Nam Tràng, Yên Ninh".

(Còn nữa)

Nguyễn Ngọc Tiến