Mũ nan làng Vẽ
Xã hội - Ngày đăng : 09:43, 08/08/2004
Ảnh: P.Thảo
Từ xưa, mũ nan làng Vẽ đã đi khắp mọi miền đất nước và rất được ưa chuộng ở xứ nhiệt đới lắm nắng nhiều mưa này. Với nguyên liệu từ cây giang mềm, dẻo... mũ nan một thời đã từng làm cho làng Vẽ trở thành một làng nghề náo nhiệt.
Nằm ở phía Tây Bắc ngoại thành Hà Nội, làng Vẽ có tên Đông Ngạc, thuộc huyện Từ Liêm. Dựa vào thần tích của đình làng cùng những di tích kiến trúc, phong tục, các cụ già trong làng cho rằng nghề mũ ở đây ra đời vào cuối đời Nguyễn, cách ngày nay khoảng 100 năm. Toàn bộ văn tự liên quan đến làng nghề trong kháng chiến đã bị thực dân thiêu huỷ cho nên bây giờ cũng không xác định được tổ nghề là ai mà thờ cúng. Các cụ cho đây là lý do dẫn đến sự mai một làng nghề.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, làng Vẽ có trên 100 hộ dân. Cả làng làm nghề nhưng chỉ vài hộ khá giả mới có máy khâu chuyên dụng để máy mũ. Để làm được sản phẩm mũ hoàn thiện, người thợ phải trải qua 3 giai đoạn: sơ chế cây giang làm nguyên liệu quanh năm, tiếp đến là chẻ (lột) thành những sợi nan mỏng đan thành cuộn dây, cuối cùng là đem cuộn dây máy thành mũ nan. Gia đình nào không có máy khâu chuyên dụng thì chỉ làm được hai khâu đầu, xong cuộn dây rồi đem bán lại cho những gia đình có máy. Những nhà có máy khâu chỉ cần làm tốt công đoạn cuối cùng là hoàn thiện chiếc mũ. Quá trình này góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá làng nghề, làng bắt đầu xuất hiện những chủ làm mũ lớn.
Điều lành mạnh là người làng Vẽ không giữ bí quyết nghề, họ sẵn sàng truyền lại kinh nghiệm cho các làng xung quanh cùng làm. Nếu thiếu vốn, các chủ sản xuất sẵn sàng cho vay vốn rồi thu lại những cuộn dây mà không bao giờ ép giá. Mũ nan làng Vẽ nổi tiếng không những chỉ bền mà còn đẹp. Bí quyết đầu tiên là các sản phẩm làm ra phải thật phong phú về chủng loại. Cùng là mũ nan nhưng phải thể hiện làm sao cho hợp "mốt" cho tất cả các đối tượng người dùng. Từ kiểu dáng cho tới màu sắc, sự khác biệt giữa mũ người lớn với mũ trẻ em, giữa thanh niên nam nữ và các bậc cao niên đứng tuổi. Mỗi một chiếc mũ ra đời đều thấm đẫm mồ hôi, trí tuệ người thợ.
Cứ giáp Tết, giang được đóng bè theo sông Hồng từ Tuyên Quang, Phú Thọ... xuôi về bến phà Chèm. Sau khi chọn được vác giang ưng ý (một vác 10 cây), người thợ phải cạo vỏ, đem luộc, phơi khô rồi hấp diêm sinh (lưu huỳnh) nhiều lần cho thật trắng và chống được mốc, mối, mọt. Trước khi "lột" thành nan, những thanh giang khô được ngâm nước. Công việc này đòi hỏi kỹ thuật ngâm làm sao cho giang ngấm đủ nước. Nếu quá, giang sẽ bị ải, còn thiếu thì sẽ không lột được thành nan.
Nhờ có nghề mũ nan cổ truyền hàng thế kỷ, nên quanh năm làng Vẽ luôn nhộn nhịp khách ra vào, kẻ bán người mua, tạo thêm sắc thái mới cho bộ mặt kinh tế của làng.
Trong kháng chiến chống Pháp, bọn thực dân tàn phá, làm cho làng nghề bị đình đốn, mai một. Mãi đến năm 1986 nghề làm mũ nan ở đây mới có điều kiện phục hồi và phát triển do chính sách mở cửa, đổi mới của Đảng và Nhà nước. Sản phẩm mũ nan làng Vẽ không những phục vụ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu. Nhưng rồi nghề làm mũ nan cũng chẳng trụ được lâu. Đến làng Vẽ hôm nay cảm giác "sít" răng khi nghe âm thanh phát ra từ dao cạo vỏ giang... chỉ còn là hình ảnh "vang bóng một thời". Giờ đây, trong làng chỉ còn lác đác một vài gia đình vang tiếng máy. Nghề thủ công bao giờ cũng có cơ chế, nhu cầu và thị trường rất riêng.
Ngày xưa, một chiếc mũ nan đội đầu là hạnh phúc của người già, niềm vui của trẻ nhỏ, là niềm tự hào của thanh niên nam nữ và mọi người, mũ vải thuộc hàng xa xỉ, vì vải may quần áo còn hiếm nữa là vải may mũ. Giờ đây "khắp chợ cùng quê" hoa cả mắt lên vì các loại mũ vải với đủ màu sắc bày bán "đại hạ giá". Sự nghiệt ngã của kinh tế thị trường đã tác động tới làng nghề nhỏ bé này. Chỉ cần 5-10.000 VND là đã có một chiếc mũ vải tương đối ưng ý, chẳng còn nhìn thấy một đứa trẻ trong làng đội mũ nan đi học nữa, nói gì đến nơi khác. Học sinh bây giờ cũng khác xưa lắm. Dân làng xoay đủ nghề để mưu sinh, trước kia làm thầy, bây giờ phải đi làm thợ may vải cho làng khác.
Đâu đó trong làng vẫn có gia đình gắn bó với nghề cổ truyền. Sản phẩm làm ra bây giờ thưa thớt lắm. Có nơi đặt hàng thì thợ mới dám làm. Hỏi ra mới biết, mũ nan bây giờ chủ yếu là loại rộng vành phục vụ cho khách du lịch, tắm biển, đội một vài lần rồi cất vào góc nhà làm... kỷ niệm.
Làng mũ bây giờ đã thay đổi hẳn, nhiều ngôi nhà cao tầng mọc vút lên báo hiệu sự phát đạt của hướng làm ăn mới. Những con dao lột nan giờ đã được thay đổi mục đích sử dụng. Chỉ có chiếc máy khâu là vẫn lặng lẽ đứng ở góc nhà vì ngoài việc may nan nó không thể may vải được. Nhiều gia đình đã bán máy khâu với giá sắt vụn...
Bây giờ mỗi lần bước chân ra phố, nhìn các loại mũ vải được bày bán khắp nơi, mà sao thấy nhớ da diết những chiếc mũ nan, nhớ một làng nghề cổ truyền với chiếc cổng làng rêu phong cổ kính, tiếng trẻ con í ới gọi nhau cầm dao đi cạo giang thuê... Hy vọng, giống như cơm niêu, nón lá, rượu cần, như chiếu cói, thảm đay, vải thổ cẩm... một ngày nào đó, làng Vẽ lại làm mũ nan, sống và làm giàu bởi những chiếc mũ nan truyền thống của mình.
HNM