Thi cao đẳng, đại học đầu thế kỷ XX

Giới trẻ - Ngày đăng : 02:01, 06/07/2014

(HNM) - Ngay sau khi chiếm hoàn toàn Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, chính quyền Pháp đã xóa bỏ dần nền giáo dục Nho học thay bằng giáo dục theo kiểu Pháp...

Hiệu trưởng Victor Tardieu và các sinh viên Hà Nội khóa đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ngày 12-8-1930. Ảnh Tư liệu


Sự ra đời của giáo dục đại học ở Việt Nam

Sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông rồi tiếp theo là 3 tỉnh miền Tây Nam bộ, năm 1864, chính quyền Pháp mở Trường Thông ngôn Sài Gòn dạy tiếng Pháp cho người Việt và dạy chữ Quốc ngữ cho người Pháp. Trường mở ra để đáp ứng cho cai trị và thương mại, nó không nằm trong hệ thống giáo dục chính thống. Hòa ước Thiên Tân ký năm 1885 giữa Chính phủ Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc) đã buộc quân Thanh phải rút hết về nước và công nhận sự bảo hộ của Pháp với Việt Nam. Đến lúc này thực dân Pháp bắt đầu thực hiện các kế hoạch mà họ đã toan tính trước đó. Năm 1886, Tổng trú sứ Pháp ở Hà Nội ký quyết định thành lập Trường Thông ngôn Hà Nội với mục đích đào tạo phiên dịch thay vì phải đưa phiên dịch từ Sài Gòn ra. Năm 1897, Paul Doumer đảm nhận chức Toàn quyền Đông Dương, bắt đầu áp dụng chính sách trực trị, xóa bỏ quan lại triều Nguyễn ở Hà Nội, xóa bỏ dần việc học chữ Hán và thi cử Nho học, thực hiện kế hoạch khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Việc đầu tiên trong chuẩn bị đưa hệ thống giáo dục kiểu Pháp vào Việt Nam là Paul Doumer quyết định thành lập Trường Collège Paul Bert (tương đương cấp II, nay là THPT Trần Phú trên phố Hai Bà Trưng). Tiếp đó, tháng 12-1902, Paul Doumer ký quyết định thành lập Trường Y Đông Dương. Dù nó chỉ tương đương như trường trung cấp (năm 1923 mới nâng cấp thành cao đẳng) nhưng Trường Y Đông Dương là trường đầu tiên trong hệ thống trường cao đẳng và đại học ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung.

Ngày 10-11-1907, Toàn quyền Paul Beau (nhiệm kỳ 1902-1907) đã ra nghị định thành lập Trường Đại học Hà Nội, trong đó có 5 trường cao đẳng gồm: Luật và Pháp chính, Khoa học, Y khoa, Xây dựng, Văn chương. Tuy nhiên do hệ thống giáo dục chưa hoàn chỉnh và Trường Collège Paul Bert chỉ dạy con quan chức Pháp và công chức cao cấp người Việt nên không thể tuyển sinh được, Toàn quyền Klobukowski (nhiệm kỳ 1908-1911) đã tạm dừng kế hoạch. Ngày 9-12-1908, Klobukowski ra quyết định thành lập Trường Thành chung Bảo hộ (Collège du Protectorat - tương đương trường cấp II hiện nay). Năm 1931 trường được nâng cấp thành Trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat - tương đương trường cấp III hiện nay), tuyển học sinh người Việt để đáp ứng đầu vào cho giáo dục cao đẳng và đại học khi kế hoạch của Paul Beau được triển khai. Vì trường xây dựng trên đất làng Thụy Khuê ở Kẻ Bưởi nên người dân gọi là Trường Bưởi.

Đến năm 1918, lúc này đã hội đủ một số điều kiện vì Hà Nội đã có bậc học Thành chung và Trường Trung học Đông Dương (năm 1923 đổi thành Trường Albert Sarraut, nay nằm khu vực phố Nguyễn Cảnh Chân) sẽ hoàn thành xây dựng và nhận học sinh năm 1919, nên Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut quyết định xây dựng hệ thống giáo dục cao đẳng, đại học ở Đông Dương. Nói chung, các trường cao đẳng và đại học ở Việt Nam chỉ thành lập trong khoảng thời gian từ năm 1919-1924. Sang những năm 1930-1945 thì có sự thay đổi: Tăng thêm các ngành học, mở rộng quy mô.

Hệ thống giáo dục Pháp - Việt áp dụng ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc đã rập khuôn theo chế độ và tổ chức giáo dục của Pháp nhưng được điều chỉnh, thêm bớt cho phù hợp với thực tế ở Đông Dương và chủ yếu là để đạt mục đích khai thác thuộc địa. Vì thế, học chế áp dụng tại Đông Dương cho bậc học cao nhất, hình thức tương tự như ở Pháp, gồm có hai loại trường là cao đẳng và đại học. Thời kỳ này vì Hà Nội là thủ đô của Liên bang Đông Dương nên hầu hết các trường đều tập trung ở đây.

Cao đẳng phải thi, đại học vào thẳng

Như đã nói ở trên, năm 1886, Trường Thông ngôn Hà Nội đã được thành lập, khóa đầu tiên tuyển 100 học viên. Thí sinh phải thi 4 môn gồm: Một bài tập đọc, tập viết và giải nghĩa các từ Hán thông dụng; làm một bài luận bằng chữ Quốc ngữ; làm bài tập với 4 phép tính số học; kiểm tra vấn đáp và làm một bài tập sơ đẳng về tiếng Pháp. Với Trường Y Đông Dương thì điều kiện được thi là biết chút tiếng Pháp. Thí sinh phải làm bài luận bằng chữ Quốc ngữ, đề bài là viết về "bệnh tật và chữa trị ở xứ An Nam" và một buổi thi vấn đáp tiếng Pháp. Khóa đầu tiên có 121 thí sinh nhưng trúng tuyển 15 người, trong đó có 7 thí sinh Hà Nội, trẻ nhất là Trần Đình Huy và Phạm Đình Minh mới có 15 tuổi.

Quan niệm về giáo dục bậc cao của nước Pháp là rất rõ ràng, gồm đại học (université) và cao đẳng (école supérieure). Đối với đại học, sinh viên muốn nhập học không phải qua bất cứ kỳ thi tuyển nào mà chỉ cần có bằng tú tài bản xứ hay tú tài Pháp là được vào thẳng. Việc thu nhận sinh viên không hạn định tuổi tác và số lượng. Chương trình học chú trọng đào tạo cơ bản, vững chãi cho tri thức chuyên ngành nào đó nhưng không nhất thiết đóng khung trong một lĩnh vực nhất định và cũng không mang tính chất nghề nghiệp bắt buộc như các trường cao đẳng chuyên nghiệp. Sinh viên phải tự túc về học phí (ngoại trừ những sinh viên xuất sắc được học bổng). Khi tốt nghiệp chính quyền không có nhiệm vụ phân công công việc, cá nhân phải tự tìm kiếm.

Tuy nhiên, muốn vào cao đẳng lại khác, vì đây là trường chuyên nghiệp nên điều kiện tuyển sinh là học sinh phải có bằng tú tài 2 hoặc tú tài toàn phần (bản xứ hoặc Pháp). Tiếp đó, học sinh phải qua một kỳ thi (concours) bằng tiếng Pháp và tùy theo từng trường thí sinh sẽ thi một hay nhiều môn. Đề thi do chính trường đó ra. Ví dụ thí sinh muốn thi vào Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương thì phải thi 3 môn gồm: Hình họa (vẽ người mẫu) trong 6 buổi, mỗi buổi 3 giờ; bố cục trang trí theo đề tài và định luật gần xa, ngoài ra còn một môn mang tính kiểm tra là bài luận. Để bảo đảm tính nghiêm túc và công bằng, trường tổ chức thi trong cùng một thời điểm ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Phnompenh, Vientiane. Bài thi của thí sinh được niêm phong gửi về Hà Nội chấm và xếp hạng. Trường Cao đẳng Thú y Đông Dương (École Supérieure Vétérinaire de l'Indochine) đào tạo phụ tá thú y sĩ với học trình 4 năm thì tuyển sinh lại khác. Từ 1918-1925, ai muốn học trường này chỉ cần có bằng Thành chung, không phải thi tuyển, tốt nghiệp thành y sĩ thú y. Tuy nhiên, từ năm 1925 đến 1935, để nâng cao chất lượng đầu vào, ngoài điều kiện phải có bằng Thành chung hoặc bằng tú tài, thí sinh phải qua kỳ thi tuyển 4 môn: Bài luận bằng tiếng Pháp, kiến thức động vật, hóa học và địa lý. Từ năm 1941 thì phải có bằng tú tài và khám sức khỏe mới được dự thi. Tốt nghiệp với văn bằng bác sĩ thú y. Còn Trường Công chính (École des Travaux Publics) đào tạo cán sự chuyên môn cho các sở công chính, địa chính và địa dư với học trình hai năm, hạn tuổi từ 18 đến 25. Lúc đầu, điều kiện phải có bằng tiểu học nhưng từ năm 1913 nếu có bằng Thành chung thì được miễn thi. Năm 1944 đổi thành Trường Cao đẳng Công chính (École Supérieur de Traveaux Publics) đào tạo kỹ sư và phó kỹ sư công chính nên thi cử càng gay gắt hơn.

Nhìn chung, học sinh trúng tuyển cao đẳng được cấp học bổng ăn học suốt quá trình học. Tốt nghiệp phải làm việc cho chính quyền (trong lĩnh vực chuyên nghiệp do trường đào tạo) trong một thời gian ấn định, nếu không, theo nguyên tắc, phải bồi thường tiền học bổng đã nhận. Các trường cao đẳng, đào tạo các chuyên viên có nghề nghiệp nhất định như: Bác sĩ, kỹ sư, công chức, giáo sư... với chương trình học rất quy củ và kỷ luật chặt chẽ. Tuy nhiên, tính đến năm 1930 toàn cõi Việt Nam mới chỉ có 500 sinh viên nên việc tổ chức thi tuyển không phức tạp. Thí sinh phần lớn là con cái các gia đình có điều kiện kinh tế khá giả nên việc thí sinh ngoại tỉnh trọ vài ngày ở Hà Nội cũng không là vấn đề lớn. Việc thi cử cũng không là sự kiện lớn ảnh hưởng đến toàn xã hội như hiện nay. 

Nguyễn Ngọc Tiến