Phát triển khoa học và công nghệ: Ba thách thức trực chờ

Công nghệ - Ngày đăng : 06:15, 16/05/2014

(HNM) - Với những kết quả mà toàn ngành khoa học và công nghệ (KH&CN) đạt được thời gian qua, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân khẳng định: Đến năm 2020 trình độ phát triển KH&CN của Việt Nam sẽ nằm trong nhóm các nước dẫn đầu của khu vực ASEAN.


Tiền đề vững chắc

Từ sau khi Việt Nam hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường, tiềm lực KH&CN của đất nước tăng lên đáng kể. Đầu tư từ ngân sách cho KH&CN vẫn giữ mức 2% trong hơn 10 năm qua, nhưng giá trị tuyệt đối tăng lên rất nhanh, đến thời điểm này đã tương đương khoảng 1 tỷ USD/năm. Cơ sở vật chất cho KH&CN đã đạt được mức độ nhất định với hệ thống gần 600 viện nghiên cứu và trung tâm nghiên cứu của Nhà nước, hơn 1.000 tổ chức KH&CN của các thành phần kinh tế khác, 3 khu công nghệ cao quốc gia ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã bắt đầu có sản phẩm đạt kết quả tốt. Việt Nam cũng có cơ sở hạ tầng thông tin tốt trong khu vực ASEAN (kết nối thông tin với mạng Á - Âu, mạng VinaREN thông qua TEIN 2, TEIN 4…). Thông qua đó có thể kết nối các nhà khoa học Việt Nam với hơn 6.000 viện nghiên cứu, trường đại học lớn của thế giới…

Phát triển hoạt động KH&CN là việc làm cần thiết trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam. Ảnh: Hoàng Hùng


Đội ngũ cán bộ khoa học đã lớn mạnh không ngừng và tương đối đông đảo với khoảng trên 62.000 người làm nghiên cứu chuyên nghiệp, hơn 3 triệu người có trình độ có thể tham gia vào các hoạt động KH&CN. Số lượng giáo sư và cán bộ trình độ cao khoảng gần 10.000 người, 24.000 người có học vị tiến sĩ. Đây là những hạt nhân góp phần đổi mới sáng tạo để năm 2013 theo bảng xếp hạng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Việt Nam đứng thứ 76/142. So với thứ hạng về kinh tế thì thứ hạng về KH&CN của Việt Nam cao hơn rất nhiều. Đặc biệt trong khu vực ASEAN, Việt Nam được xếp hạng thứ 4 về đổi mới sáng tạo.

Vài năm gần đây, Bộ KH&CN đã hoàn thiện được nền tảng pháp lý cho hoạt động này. Trong đó có những chính sách đột phá mang tính chất của nền kinh tế thị trường và đặc thù của hoạt động KH&CN, nổi bật là Luật KH&CN quy định bắt buộc các DN phải dành một tỷ lệ nhất định trong thu nhập trước thuế để đầu tư cho KH&CN. Như vậy, nguồn tài chính cho KH&CN trong thời gian tới có thể sẽ tăng đột biến và sẽ lớn hơn nguồn đầu tư từ ngân sách.

Nỗ lực vào tốp đầu ASEAN

Đẩy mạnh hoạt động KH&CN để cạnh tranh thành công trong khu vực và quốc tế, ngành đang tập trung cho các sản phẩm quốc gia, có hàm lượng KH&CN giá trị gia tăng cao. Đó là những sản phẩm Việt Nam có thế mạnh, hoặc là những sản phẩm cơ khí siêu trường siêu trọng, mà nếu phụ thuộc vào nhập khẩu sẽ làm chậm tốc độ của các dự án công nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, một số chương trình trọng điểm cấp Nhà nước về khoa học quản lý, chương trình trọng điểm cấp Nhà nước mang tính đặc thù như chương trình năng lượng để bảo đảm an ninh năng lượng; chương trình về y tế và dược để nghiên cứu và đưa vào những công nghệ mới, kỹ thuật hiện đại chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân... vẫn được duy trì.

Với những nền tảng vững chắc đặc biệt về cơ chế, chính sách, cùng các giải pháp mạnh, dự báo trong 5 năm tới trình độ phát triển KH&CN Việt Nam nằm trong tốp các nước dẫn đầu của khu vực ASEAN. Đây cũng chính là mục tiêu của chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2020. Bên cạnh đó là mục tiêu nâng cao giá trị, hàm lượng KH&CN trong GDP quốc gia bằng việc chiếm 35% trong giá trị gia tăng của nền kinh tế (thông qua chỉ số TFP); sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao chiếm tỷ trọng khoảng 40% giá trị sản xuất công nghiệp; tốc độ đổi mới công nghệ đạt từ 15% đến 17%/năm; tốc độ công bố quốc tế trên các tạp chí quốc tế có uy tín tăng 20%, đẩy mạnh sáng chế, đăng ký và bảo hộ.

Để đạt được những mục tiêu trên, có ba thách thức lớn Việt Nam đang phải đối mặt. Thứ nhất, về thể chế, tuy đã xây dựng được nhiều nghị định, thông tư, nhưng nền tảng pháp lý chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Thứ hai, nguồn lực còn khó khăn, đầu tư của Nhà nước không đủ để thực hiện được những mục tiêu quan trọng của chiến lược. Đội ngũ nhà khoa học còn hạn chế về chất lượng, đặc biệt hiện nay rất thiếu các nhà khoa học đầu ngành, thiếu các tổng công trình sư. Thứ ba, quá trình đổi mới tư duy của hệ thống quản lý đối với vai trò của hoạt động KH&CN cần phải có một thời gian tương đối dài. "Dù luôn được đặt ở vị trí quan trọng trong các văn kiện nhưng giới quản lý nói chung mới chỉ quan tâm đến những mục đích trước mắt, chưa quan tâm đến mục tiêu lâu dài nên nhiều nơi nguồn kinh phí cho KH&CN được sử dụng không đúng mục đích. Trong bối cảnh thế giới phát triển rất nhanh chóng, nhận thức của giới quản lý là quan trọng nhất" - Bộ trưởng Nguyễn Quân nhận định.

Mai Hà - Ánh Tuyết