Mặc dù thời gian nghỉ thai sản dài, Việt Nam vẫn tụt hậu về chế độ cho các ông bố
Đời sống - Ngày đăng : 12:52, 13/05/2014
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. |
Trong báo cáo “Chế độ thai sản cho nam và nữ tại nơi làm việc: Pháp luật và thực tiễn trên thế giới,” ILO đã so sánh pháp luật của 185 quốc gia và vùng lãnh thổ với những tiêu chuẩn mới nhất của ILO.
Báo cáo được công bố tại Geneva hôm nay đã chỉ ra sự thay đổi tích cực về thời gian nghỉ thai sản. Không có quốc gia nào cắt giảm thời gian nghỉ thai sản từ năm 1994.
Với việc Bộ Luật Lao động 2012 tăng thời gian nghỉ thai sản từ 4 đến 6 tháng, chế độ nghỉ thai sản của Việt Nam là một trong những thời gian dài nhất ở châu Á. Khu vực này chỉ có 5 quốc gia đạt hoặc vượt tiêu chuẩn nghỉ thai sản 14 tuần do ILO quy định (Mông Cổ 120 ngày, Bangladesh 16 tuần, Singapore 16 tuần và Trung Quốc là 14 tuần).
“Nếu thời gian nghỉ quá ngắn, các bà mẹ có thể muốn ưu tiên cho việc bảo vệ sức khỏe của đứa con và của chính mình, nên chưa cảm thấy sẵn sàng quay trở lại làm việc và có thể bị loại khỏi thị trường lao động vì lý do này,” Giám đốc ILO Việt Nam Gyorgy Sziraczki cho biết.
“Nhưng thời gian nghỉ quá dài cũng có thể tác động không tốt đến sự gắn bó của phụ nữ với công việc được trả lương và khả năng thăng tiến của họ, cũng như dẫn đến nguy cơ phân biệt đối xử với lao động nữ trong quá trình tuyển dụng, mang thai và nghỉ thai sản. Đó là một con dao hai lưỡi!”
Cũng như Việt Nam, 58% quốc gia và vùng lãnh thổ hiện đang trợ cấp thai sản bằng tiền mặt thông qua bảo hiểm xã hội trong khi 1/4 các nước khác quy định chủ lao động phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trả trợ cấp thai sản cho người lao động.
Chuyển biến tích cực về chế độ nghỉ thai sản cho nam giới
Nam giới tại Việt Nam không được nghỉ thai sản trong khi chế độ thai sản cho cha đang ngày càng trở nên phổ biển trên thế giới, nhưng dự thảo Luật Bảo hiểm Xã hội sửa đổi mở ra một hy vọng cho các ông bố đang làm việc.
Đến năm 2013, ít nhất 78 trên tổng số 167 quốc gia quy định hình thức nghỉ phép nhất định dành cho các bậc làm cha khi con mình chào đời. Đó là một sự tiến bộ bởi vào năm 1994, chế độ nghỉ thai sản dành cho nam giới chỉ tồn tại ở 40 trên tổng số 141 quốc gia có số liệu.
Chế độ thai sản dành cho các bậc làm cha được áp dụng phổ biến nhất tại các nền kinh tế phát triển, châu Phi, Đông Âu và Trung Á.
Tiến sĩ Sziraczki nhận định: “Việc công nhận quyền làm cha của nam giới cũng như trách nhiệm của họ phải san sẻ việc nhà và chăm sóc gia đình (những công việc không được trả lương) sẽ giúp xóa bỏ những quan điểm xã hội truyền thống và thúc đẩy bình đẳng giới tại nơi làm việc và tại gia đình".
Theo những diễn biến mới nhất, dự thảo Luật Bảo hiểm Xã hội sửa đổi (sẽ được đưa ra thảo luận tại kỳ họp Quốc hội khai mạc trong tháng 5 này) lần đầu tiên đề cập đến chế độ nghỉ thai sản cho lao động nam.
Nếu dự thảo luật nhận được sự đồng tình của Quốc hội, lao động nam sẽ được nghỉ 5-7 ngày hưởng nguyên lương tùy vào việc vợ sinh thường hay phải phẫu thuật.
Dự thảo luật đồng thời cũng quy định về chế độ nghỉ thai sản khi nhận con nuôi (người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi). Việc cho phép bố mẹ nuôi được hưởng các chế độ bảo trợ xã hội là phù hợp với các khuyến nghị của ILO và đã được đưa vào luật pháp của nhiều nước trên thế giới.
Không được bảo vệ
“Trong khi những kết luận của chúng tôi chỉ ra rằng pháp luật tại nhiều quốc gia đã thông qua các nguyên tắc bảo vệ thai sản và hỗ trợ người lao động thực hiện trách nhiệm gia đình thì việc thiếu bảo vệ trên thực tế vẫn là một trong những thách thức lớn đối với các bậc làm cha mẹ tại nơi làm việc hiện nay,” đồng tác giả của báo cáo, bà Laura Addati, Chuyên gia của Phòng Giới, Bình đẳng và Đa dạng, ILO Geneva cho biết.
Trên thế giới, hầu hết phụ nữ – khoảng 830 triệu người – vẫn không được bảo vệ đầy đủ về nghỉ thai sản cũng như bảo đảm thu nhập trong thời gian sinh con.
Gần 80% những phụ nữ này làm việc ở châu Phi và châu Á, nơi một số nhóm lao động không được bảo vệ bởi luật pháp và trên thực tế. Đây là trường hợp thường gặp đối với những người tự kinh doanh, lao động di cư, lao động giúp việc gia đình, lao động trong ngành nông nghiệp, lao động làm những công việc tạm thời hoặc không có việc làm ổn định, người dân tộc thiểu số.
Tại Việt Nam, các điều khoản về chế độ thai sản chỉ có thể áp dụng cho gần 30% lực lượng lao động và việc khu vực phi chính thức, bao gồm ngành nông nghiệp, vẫn còn quá lớn là một vấn đề đối với việc thực thi pháp luật.
ILO có 3 công ước về bảo vệ thai sản được thông qua vào năm 1919, 1952 và 2000. Các công ước này quy định việc phòng ngừa tiếp xúc với những nguy hại về an toàn và sức khỏe trong quá trình mang thai và cho con bú, quyền được trả trợ cấp thai sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em và thời giờ nghỉ cho con bú, bảo vệ chống phân biệt đối xử và sa thải liên quan đến thai sản, cũng như quyền được đảm bảo khi trở lại làm việc sau khi nghỉ thai sản.
Mặc dù 66 quốc gia trong tổng số 185 quốc gia và vùng lãnh thổ đã cam kết thực hiện ít nhất 1 trong 3 công ước trên, Việt Nam không nằm trong số đó. Tuy nhiên, các điều khoản quy định trong Bộ Luật Lao động và dự thảo Luật Bảo hiểm Xã hội, cùng các biện pháp khác, được kỳ vọng sẽ thúc đẩy việc gia nhập và thực hiện các công ước của ILO để bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của bà mẹ và trẻ em Việt Nam.
Tiến sỹ Sziraczki nhận định: “Đảm bảo công việc và thu nhập cho lao động nữ trong và sau quá trình mang thai là một việc làm cần thiết giúp phụ nữ có được cơ hội bình đẳng và được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc, giúp thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ.”