8,66% thuê bao 3G bị tăng giá cước dữ liệu

Kinh tế - Ngày đăng : 17:01, 08/11/2013

(HNMO) - Chiều ngày 8-11, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT-TT) Lê Nam Thắng đã chủ trì cuộc họp báo về một số nội dung quản lý viễn thông. Buổi họp báo đã dành hầu hết thời gian giải đáp về vấn đề đang được dư luận quan tâm là việc 3 DN chiếm thị phần khống chế vừa thực hiện tăng cước dữ liệu 3G.

Tại cuộc họp, Lãnh đạo Cục Viễn thông cho biết, trong tháng 8 và tháng 9-2013, cả 3 nhà mạng MobiFone, Vinaphone, Viettel đã lần lượt gửi hồ sơ đến Bộ TT-TT đăng ký điều chỉnh giá cước dịch vụ dữ liệu 3G. Ngày 4-10, Cục Viễn thông đã có công văn chấp thuận cho các DN tăng cước và việc xác định thời gian điều chỉnh giá cước thuộc quyền của doanh nghiệp (được biết các DN này đã ban hành các quyết định điều chỉnh giá dịch vụ lần lượt là MobiFone ngày 7-10, Viettel ngày 10-10 và Vinaphone ngày 14-10). Thực tế, dựa theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và quy trình vận hành mạng lưới, 3 nhà mạng đã áp dụng tăng cước từ ngày 16-10.

Về sở cứ điều chỉnh giá cước, theo Cục Viễn thông được dựa trên 4 yếu tố sau. Về giá thành, giá trung bình của dịch vụ dữ liệu 3G là 167,66 đ/MB (chưa VAT) và 184,4 đ/MB (đã bao gồm VAT); trong khi mức giá hiện bán trên thị trường là 100 đ/MB (đã bao gồm VAT) chỉ bằng 54% giá thành.

Về cung cầu trên thị trường, các DN đã đầu tư trên 30.000 tỷ đồng để đầu tư cho hạ tầng mạng lưới và hiện là công nghệ 3,5G với khoảng 44.000 trạm BTS. Trong giai đoạn đầu nhà mạng đã hạ giá cước thấp để thu hút người sử dụng, nhưng hiện nay, nhu cầu người sử dụng lớn (hiện là 18,9 triệu thuê bao), dung lượng tăng mạnh vượt quá khả năng cung cấp dịch vụ với chất lượng bảo đảm của mạng lưới. Để có thể tái đầu tư mở rộng mạng lưới, nâng cao chất lượng dịch vụ thì việc từng bước điều chỉnh giá cước dịch vụ dữ liệu 3G đến giá thành là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các DN hoạt động có hiệu quả và cũng phù hợp với quy luật cung cầu của thị trường.

Về so sánh giá cước Việt Nam với khu vực và thế giới, cước dữ liệu 3G thực chất là cước dịch vụ internet, nghĩa là các DN trong nước phải thanh toán lưu lượng cho đối tác nước ngoài (mà hầu hết máy chủ đặt ở nước ngoài) nên cước dịch vụ phải đặt so sánh với giá trung bình của khu vực và thế giới. Cụ thể, ciá cước dịch vụ dữ liệu 3G trong nước sau khi điều chỉnh trung bình là 111 đ/MB chỉ bằng 34,9% mức giá cước trung bình của khu vực ASEAN (318 đ/MB). Nếu so sánh tương đối theo thu nhập quốc dân bình quân đầu người thì mức giá cước của Việt Nam (4,8 USD) chỉ bằng 18% (trả trước) đến 27% (trả sau) so với mặt bằng chung thế giới, bằng 34% (trả trước) đến 57% (trả sau) so với mặt bằng chung khu vực Châu Á -Thái Bình Dương.

Về phương thức, mức giá cước điều chỉnh và phạm vi điều chỉnh, tổng mức điều chỉnh trung bình các gói tăng khoảng 20%. Cụ thể, trong số 91,2 triệu thuê bao điện thoại di động phát sinh cước tháng 9-2013 chỉ có 18,9 triệu thuê bao sử dụng dữ liệu 3G-chiếm tỷ trọng 20,77%. Trong số này, có 2,72% số thuê bao được điều chỉnh giảm giá, 9,38% số thuê bao được giữ nguyên giá cước và chỉ có 8,66% số thuê bao bị tăng giá cước.

Châu Anh