Sự tích hợp của sách giáo khoa
Xã hội - Ngày đăng : 05:45, 19/08/2013
Một lần nữa, SGK lại được "xới" lên với hàng loạt vấn đề như: Quá nặng về kiến thức nhưng ngày càng xa rời thực tế và không khuyến khích được tư duy sáng tạo của học sinh; nội dung thay đổi và cải cách quá nhiều trong thời gian ngắn; khâu tổ chức biên soạn cũng có không ít vấn đề… Câu chuyện SGK với những khiếm khuyết hoặc quá thừa không chỉ làm lãng phí tiền bạc, thời gian mà còn đặt lên vai học sinh, giáo viên những áp lực không đáng có. Đã quá nhiều năm chúng ta kỳ vọng vào một bộ SGK chuẩn mực trong thời kỳ hội nhập, nhưng rồi vẫn thất vọng đến tận bây giờ. Thôi thì dù thất vọng nhưng vẫn tiếp tục phải hy vọng!
Nền tảng nào để xây dựng bộ SGK chuẩn mực? Cho đến nay, đây vẫn là một câu hỏi chưa cho câu trả lời chính xác.
Theo Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), SGK là sách soạn theo chương trình, dùng để dạy và học trong trường phổ thông. Có nhiều định nghĩa khác nhau về SGK, tựu trung có thể hiểu SGK là loại sách cung cấp kiến thức, được biên soạn với mục đích dạy và học. Thuật ngữ SGK còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho một ngành học. Cũng có rất nhiều tiêu chí được đặt ra với loại sách này. Theo Phó Chủ tịch Tổ chức phát triển quốc tế chuyên nghiệp Pearson - Sherry Preiss, "một cuốn SGK phải sống và chuyển động, kiến tạo và sáng tạo những tri thức của người học, của giáo viên và cộng đồng".
Với chức năng tự thân, SGK có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình nhận thức của học trò, chứa đựng hàm lượng cơ bản nhất về tri thức và là nền tảng của tư duy sau này của đời người.
Nếu tìm hiểu tiến trình phát triển của ngành giáo dục nước nhà gần một thế kỷ qua, mỗi lần cải cách giáo dục phổ thông là một lần… thay đổi sách giáo khoa. Trong kháng chiến chống Pháp, với mục tiêu xây dựng một nền giáo dục phù hợp với chế độ mới, chúng ta đã tiến hành cuộc cải cách giáo dục đầu tiên. Những cuốn sách giáo khoa đầu tiên viết mộc mạc, in trên giấy bản đã xuất hiện vào năm 1950. Đến năm 1956, sau hai năm "từng đoàn quân chiến thắng tiến về Thủ đô", để thống nhất nền giáo dục trong chiến khu kháng chiến và những vùng địch tạm chiếm, một cuộc cải cách giáo dục mới được tiến hành. Theo đó, bộ SGK mới được viết cho chương trình giáo dục phổ thông 10 năm, thay vì 9 năm như thời kháng chiến. Tiếp đó, sau 4 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, năm 1979, nhằm thống nhất nền giáo dục chung cho cả nước, cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba được tiến hành với việc xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm. Ba cuộc cải cách giáo dục phổ thông đã làm tròn sứ mệnh trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Cái hay ở chỗ là chỉ cần một bộ SGK in đen trắng trên giấy xấu đã được nhiều thế hệ trong một gia đình gìn giữ, chuyền tay nhau học tập. Vừa viết sách, vừa hình thành chương trình giáo dục trong bối cảnh hết sức khó khăn, nhưng nền tảng tri thức từ những cuốn SGK ấy đã tạo nên nhiều nhân tài phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Lần cải cách SGK thứ tư tiến hành vào năm 2002 được thực hiện một cách bài bản hơn: Xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu dạy thử nghiệm rồi mới làm SGK chính thức. Không ít kinh nghiệm biên soạn SGK của nước ngoài đã được tiếp thu và theo một nhà giáo dục học thì có đến 500 nhà khoa học đã tham gia biên soạn và thẩm định bộ SGK này. Tuy nhiên, sau một thời gian "lưu hành", SGK đã "phát lộ" nhiều bất cập và cho đến hôm nay, có thể thấy rằng SGK không chỉ là gánh nặng với học sinh, với thầy, cô giáo mà còn kéo theo nhiều hệ lụy cho xã hội. Vì sao bộ SGK được xây dựng công phu với sự tham gia của đông đảo giới khoa học lại có kết quả như vậy? Vấn đề không chỉ là chuyện 3 cấp học với hàng chục môn, hàng trăm quyển sách, những chi tiết chưa chuẩn xác… mà là tư duy của những người làm quản lý giáo dục, những người làm SGK cứ bâng khuâng giữa dòng!
Một nhà khoa học giáo dục đã thẳng thắn nêu lên 6 vấn đề của SGK hiện nay. Thứ nhất, việc xây dựng chương trình học còn thiếu nhiều kiến thức, kể cả thiếu một số môn cốt lõi về khoa học tư duy, về kỹ năng sống, khả năng sáng tạo. Thứ hai, SGK hiện nay định vị không đúng vai trò của các môn học trong cấu trúc kiến thức (ví dụ, ngoại ngữ có vai trò quan trọng trong đời sống hiện tại nhưng lại là môn tự chọn, đưa vào chương trình từ lớp 3). Thứ ba, những kiến thức sử dụng lối dạy đồng tâm, xuyên suốt các lớp là phương pháp có tính sư phạm cao, do vậy bộ SGK phải có một tổng chủ biên quán xuyến từ đầu đến cuối. Thế nhưng chúng ta đã không làm được điều ấy nên kiến thức bị phân khúc, tách rời, ngắt quãng. Thứ tư, SGK hiện nay thiếu tính xuyên môn trong cấu trúc chương trình. Thứ năm, thiếu tính liên thông về kiến thức. Thứ sáu, việc lựa chọn khối lượng và tính chất các đơn vị kiến thức đưa vào chương trình nhiều khi chưa có tính sư phạm, còn quá tải, sai thực tế… Một vị lãnh đạo của Bộ GD-ĐT cũng thừa nhận: Nội dung và phương pháp giáo dục lạc hậu, nặng về dạy chữ, gây hiện tượng quá tải không chỉ đối với học sinh mà còn với công tác quản lý…
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy cải tiến SGK là hết sức cần thiết. Với một chương trình giáo dục không còn phù hợp với xã hội hiện đại, không bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới thì đương nhiên phải thay đổi. Thế nhưng thay đổi ra sao, trên nền tảng nào, thực hiện vào thời điểm nào… lại là cả vấn đề. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, GS.TS Trần Hồng Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho rằng: Chúng ta phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, trong đó có rất nhiều việc phải làm chứ không phải chỉ có chăm chăm nghĩ đến chuyện viết lại SGK. Chúng ta đang giáo dục con người theo cách thụ động. Do đó, trước khi muốn viết lại sách để giáo dục thì nên cải cách lại phương pháp dạy và học, đổi mới định hướng cho chương trình, nội dung và phương pháp cho các bậc học. Nếu chỉ quan tâm đến việc viết lại sách sẽ không giải quyết được vấn đề gì… Như vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng nội dung chương trình dạy học phải theo hướng giảm tải, kết cấu đồng bộ, hợp lý giữa giáo dục nhân cách, lối sống với giáo dục tri thức - văn hóa - khoa học - công nghệ, giáo dục tư duy sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng thực hành. Đặc biệt, phải xác định rõ mục tiêu giáo dục và việc đổi mới SGK là công đoạn cuối cùng trong quá trình đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục.
Cốt lõi của giáo dục là dạy người và dạy làm người. Trong một thế giới hội nhập với sự vận động đến vô tận của kiến thức, không thể tiếp tục chạy đuổi để tạo ra những cỗ
máy có thể nạp đầy kiến thức mà phải tạo ra những con người có khả năng làm chủ tri thức, biết độc lập suy nghĩ và giàu khả năng tư duy sáng tạo, biết sống, cống hiến bằng trái tim, bằng trách nhiệm với đất nước, với dân tộc. "Muốn thắng trong kinh tế, trước hết phải thắng trong giáo dục", chúng ta cần hình thành một triết lý giáo dục riêng mang đặc thù Việt Nam và định hình rõ mục tiêu giáo dục. Từ đó đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở coi người học là một chủ thể sáng tạo đầy tiềm năng để khơi gợi tiềm năng ấy mở ra và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để điều đó trở thành hiện thực thì không chỉ tạo dựng cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo mà còn phải thay đổi tư duy, nhận thức của những người thầy (bởi họ chính là cầu nối đưa mọi sự cải cách giáo dục đến với học sinh). Nếu không có những người thầy tâm huyết, trí tuệ sẽ không có những nhân cách, những tài năng cho đất nước. Thế nên đổi mới giáo dục không thể tách rời việc cải cách sư phạm.
Sự nghiệp giáo dục đối với Việt Nam không chỉ là động lực cho kinh tế mà còn là nhân tố để chấn hưng văn hóa, gìn giữ và phát huy các giá trị Việt Nam. Học sinh Việt Nam cần có một chương trình đào tạo mới và bộ SGK tích hợp những tri thức cơ bản, những giá trị văn minh của dân tộc và nhân loại, được xây dựng một cách có hệ thống mang tính đặc thù, đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực của đất nước chứ không phải là sự chắp vá, vay mượn hay áp đặt một cách thô thiển công nghệ giáo dục từ các nước khác. Một vấn đề nữa, đổi mới giáo dục đào tạo phải được đặt trong tổng thể nền kinh tế - xã hội và những dự báo phát triển trong tương lai. Kinh nghiệm từ những lần cải cách giáo dục trong lịch sử cũng như những lần thay đổi SGK trước đây không cho phép biến những "cải tiến" trong giáo dục - đào tạo thành "cải lùi". Nếu không có cách nhìn hệ thống, tư duy khoa học là lộ trình cụ thể thì công cuộc cải cách giáo dục không chỉ như "dã tràng xe cát" mà còn để lại nhiều hệ lụy cho các thế hệ người Việt trong tương lai.