Những dấu hiệu phục hồi
Kinh tế - Ngày đăng : 08:11, 12/07/2013
Đã thoát khỏi trì trệ
Sáu tháng đầu năm, kinh tế vĩ mô đã đạt được những kết quả tích cực. Tăng trưởng của hầu hết các ngành, lĩnh vực đều được cải thiện, góp phần làm tăng mức tăng trưởng GDP quý II lên 5%, cao hơn mức tăng của quý I và đưa tăng trưởng 6 tháng lên 4,9%. Trong đó, sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo duy trì đà phục hồi và có những chuyển biến đáng kể. Dịch vụ tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động sản xuất, kinh doanh (SXKD) của doanh nghiệp (DN) bước đầu có những tín hiệu tích cực.
Xuất khẩu đang đà tăng trưởng khá cao trong những tháng đầu năm. Ảnh: Ngô Sơn |
CPI tháng 6 tăng 2,4%, là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ trong vòng 10 năm qua. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 5,2% so cùng kỳ. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số IIP tăng dần qua từng tháng: 3 tháng đầu năm tăng 4,9%; 4 tháng tăng 5%; 5 tháng tăng 5,2%; 6 tháng tăng 5,2%. IIP quý II tăng 6%, cao hơn khá nhiều so với mức tăng 4,5% trong quý I. Cùng với lãi suất giảm, nhiều biện pháp miễn giảm thuế, giãn thuế... đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho SXKD. Xuất khẩu duy trì đà tăng trưởng khá cao. Hoạt động nhập khẩu, nhất là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ đầu tư và SXKD cải thiện đáng kể; tỷ lệ nhập siêu thấp. Vốn ODA và FDI thực hiện đều tăng so với cùng kỳ. Với những chuyển biến khả quan nêu trên, có thể nhận định thời gian còn lại của năm nay, nền kinh tế có những thuận lợi cơ bản, từng bước thoát khỏi tình trạng trì trệ.
Cần đẩy mạnh xuất khẩu
Sáu tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của cả nước đạt 62,053 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ (đạt 49% kế hoạch năm). Tuy nhiên, KNXK tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Để hoàn thành kế hoạch năm 2013 mà Chính phủ giao là 126,1 tỷ USD, 6 tháng cuối năm phải xuất khẩu bình quân 10,67 tỷ USD/tháng. Nếu không có yếu tố đột biến thì đây là con số có khả năng thực hiện. Theo các chuyên gia, xuất khẩu mới chỉ tận dụng được lợi thế về lao động và tài nguyên. Kết quả là tỷ trọng xuất khẩu chủ yếu gồm những ngành hàng sử dụng lao động với giá trị gia tăng thấp, nhất là các mặt hàng nông nghiệp và tài nguyên khoáng sản. Tỷ trọng các mặt hàng sử dụng công nghệ hiện đại thấp so với các nước ASEAN. Trong bối cảnh Chính phủ đang đặt ra nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng, nước ta phải cải thiện cơ cấu xuất khẩu bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng sử dụng công nghệ hiện đại trên cơ sở đổi mới công nghệ.
Thời gian tới, thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam được dự báo là nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng trưởng chậm lại, trong khi các thị trường của Châu Á lại được dự báo là nhu cầu nhập khẩu tăng nhanh. Nếu xuất khẩu sang các quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á, Việt Nam sẽ tận dụng được lợi thế về khoảng cách địa lý và nhiều nét tương đồng về văn hóa thuận lợi trong việc tiếp cận và mở rộng thị trường. Ngoài ra, để cải thiện cơ cấu xuất khẩu không thể không tính đến vai trò của DN có vốn đầu tư nước ngoài vì hiện tại khu vực này chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu và là kênh quan trọng kết nối kinh tế trong nước với nền kinh tế toàn cầu. Do đó, việc định hướng xuất khẩu hàng hóa công nghệ tiên tiến cần có chính sách thu hút các DN FDI có chất lượng.
Để đạt mục tiêu năm 2013, Bộ Công thương đang tập trung tháo gỡ giúp các DN nâng cao chất lượng hàng hóa để thúc đẩy xuất khẩu, theo đó tập trung thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ và đơn giản hóa thủ tục hành chính cấp C/O (thủ tục hải quan về xuất khẩu); nâng cấp và hoàn thiện hệ thống cấp giấy chứng nhận xuất xứ, triển khai trao đổi cấp C/O điện tử với các nước trong khu vực; đẩy mạnh đàm phán song phương, đa phương nhằm mở rộng thị trường thúc đẩy xuất khẩu, tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do để tạo thị trường cho xuất khẩu hàng hóa, gia tăng xuất khẩu và tập trung khai thác tốt hơn các thị trường truyền thống đồng thời quan tâm phát triển các thị trường mới, nhất là các thị trường có nhiều tiềm năng ở khu vực Đông Âu, Tây Á, Nam Á, Châu Phi, Mỹ La tinh. Bộ Công thương cũng xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm một số ngành hàng có lượng hàng hóa lớn như gạo, thủy sản, cà phê, hạt tiêu, hạt điều; đổi mới phương thức xúc tiến thương mại trong, ngoài nước, trong đó ưu tiên những thị trường tiềm năng, hàng hóa đang có nhu cầu lớn về tiêu thụ trong nước và xuất khẩu nhưng đang gặp khó khăn; nâng cao hiệu quả công tác thông tin, dự báo thị trường, tuyên truyền nâng cao nhận thức của DN về rào cản của các nước nhập khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cải thiện chất lượng hàng hóa tránh rủi ro cho DN khi xuất khẩu.