Cần thiết ban hành Luật Phòng chống thiên tai
Chính trị - Ngày đăng : 15:26, 30/10/2012
Thiên tai đang là nguy cơ lớn đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước.Thực tế này đòi hỏi phải có khung pháp luật phù hợp làm cơ sở cho việc tăng cường công tác phòng chống thiên tai ở Việt Nam trong thời gian tới.
Triều cường làm quốc lộ 13 đoạn đi qua thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương chìm trong biển nước. |
Việt Nam với khí hậu nhiệt đới gió mùa nằm ở 1 trong 5 ổ bão lớn của thế giới, hàng năm phải đối mặt với nhiều loại thiên tai xảy ra. Trong những năm gần đây, diễn biến thiên tai và thời tiết ở Việt Nam ngày càng có nhiều biểu hiện bất thường và phức tạp hơn. Biến đổi khí hậu và tình trạng trái đất ấm lên được cảnh báo sẽ làm cho thiên tai trở nên tồi tệ hơn trên phạm vi toàn cầu. Ở cấp độ quốc gia, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cùng với sự gia tăng dân số càng làm gia tăng các nguy cơ, hiểm họa trước thiên tai.
Trong các năm qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành một số luật, pháp lệnh liên quan đến quản lý thiên tai bao gồm: Luật Tài nguyên nước năm 1998, Luật Đê điều năm 2006; Pháp lệnh Phòng, chống lụt, bão năm 1993 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Phòng, chống lụt, bão năm 2000, Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi năm 2001 và một số luật, pháp lệnh có liên quan khác. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều nghị định hướng dẫn thi hành...
Hệ thống văn bản pháp luật được ban hành đã đi vào cuộc sống, trở thành công cụ pháp lý quan trọng trong công tác phòng chống thiên tai thời gian qua. Trên thực tế, Việt Nam đã có bước tiến đáng kể và đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác phòng chống thiên tai được quốc tế đánh giá cao, điển hình như: Hệ thống cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng chống lụt, bão được hình thành và hoạt động có hiệu quả góp phần giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra, nhất là các thiên tai liên quan đến nước. Hiện nay, tổ chức này cần được tiếp tục củng cố, tăng cường để đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai được mở rộng với các loại thiên tai khác. Cùng với đó, Chính phủ đã phê duyệt và ban hành Chiến lược Quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, trong đó xác định các mục tiêu, nguyên tắc và giải pháp phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố đã xây dựng kế hoạch thực hiện. Ban chỉ đạo Phòng, chống lụt, bão Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổng hợp thành kế hoạch thực hiện Chiến lược Quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua và đang tổ chức thực hiện. Các Bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp đã nhận thức được vai trò, trách nhiệm trong phòng chống thiên tai, đã tổ chức thực hiện khá tốt các nhiệm vụ thuộc phạm vi quản lý trên cả ba giai đoạn của chu trình phòng chống thiên tai: Phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả.
Đáng chú ý, Đảng, Nhà nước đã tập trung nguồn lực để thực hiện các giải pháp phòng chống thiên tai như: Đầu tư công trình phòng chống thiên tai; tăng cường công tác dự báo, cảnh báo thiên tai; tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng trong phòng chống thiên tai… Sự đầu tư đó kết hợp với đóng góp của người dân, cộng đồng đã góp phần hạn chế được thiệt hại do thiên tai gây ra, đặc biệt là về số người chết và mất tích.
Tuy nhiên, qua tổng kết tình hình thực hiện các quy định pháp luật về phòng chống thiên tai trong thời gian qua cho thấy, các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về phòng chống thiên tai vẫn còn tồn tại những bất cập chính gồm:
Thứ nhất, chưa có một đạo luật chung điều chỉnh các loại thiên tai. Các văn bản pháp luật chủ yếu mới điều chỉnh về phòng, chống lũ, ngập lụt, nước biển dâng, bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sạt lở đất do mưa, lũ, bão và sóng biển gây ra, các loại thiên tai khác chưa được quy định hoặc mới được quy định ở các văn bản có hiệu lực pháp lý chưa cao. Tuy vậy, hệ thống văn bản hiện hành về phòng chống thiên tai nhiều về số lượng nhưng chưa đầy đủ, chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Liên quan đến phòng chống lụt bão nói riêng, hiện có đến hơn 150 văn bản. Trong số các văn bản này, Pháp lệnh Phòng chống lụt bão điều chỉnh trực tiếp công tác phòng chống đối với “lũ, ngập lụt, nước biển dâng, bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sạt lở đất do mưa, lũ, bão và sóng biển gây ra”. Luật Tài nguyên nước cũng quy định về phòng chống các tai nạn liên quan tới nước, bao gồm: lụt, bão, ngoài ra còn điều chỉnh thêm về hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng, tràn, mưa đá, mưa a-xít (không thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh phòng chống lụt bão). Động đất, sóng thần được quy định tại Quy chế phòng chống động đất, sóng thần do Chính phủ ban hành (2006). Một số loại thiên tai thường xảy ra ở Việt Nam và tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế, xã hội nhưng lại chưa có văn bản riêng điều chỉnh như: Nắng nóng, rét đậm, rét hại…
Thứ hai, trong hệ thống pháp luật hiện nay còn thiếu các quy định và chế tài cụ thể về lồng ghép nội dung phòng chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của bộ, ngành và địa phương, dẫn đến giải pháp phát triển thiếu đồng bộ và bền vững trước thiên tai; nhiều công trình hạ tầng dễ bị hư hỏng, xuống cấp, một số gây cản trở thoát lũ hoặc làm tăng nguy cơ sạt lở.
Thứ ba, chưa có quy định về việc xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng chống thiên tai, dẫn đến không chú trọng bố trí nguồn lực tương xứng. Khi thiên tai xảy ra mới tập trung ứng phó và khắc phục thiệt hại. Do đó, việc sử dụng nguồn lực cho phòng chống thiên tai kém hiệu quả.
Thứ tư, chưa có quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc chủ động phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai, đồng thời tham gia vào công tác chung của cộng đồng, dẫn đến, nhiều người dân không biết hoặc không tự giác tham gia các hoạt động phòng chống thiên tai. Cùng với đó, trách nhiệm của chính quyền địa phương và người đứng đầu chính quyền địa phương chỉ mới được quy định ở các văn bản hướng dẫn hiệu lực pháp lý thấp. Do đó, có tình trạng một số địa phương, nhất là cấp xã, chưa nhận thức được đầy đủ trách nhiệm, thiếu chủ động trong phòng chống thiên tai.
Thứ năm, một số quan điểm chỉ đạo về phòng chống lụt, bão, giảm nhẹ thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu đã được ghi trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung và phát triển năm 2011; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, chưa được thể hiện trong các văn bản pháp luật.
Ngoài ra, một số điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như: Nghị định thư Kyoto và Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Khung hành động Hyogo về giảm nhẹ thiên tai, Hiệp định ASEAN về quản lý thiên tai và ứng phó khẩn cấp (AADMER)... chưa được nội luật hóa trong các văn bản pháp luật của Việt Nam.
Do đó, để khắc phục những bất cập nêu trên, cần thiết phải xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện Luật Phòng chống thiên tai...
Luật Phòng chống thiên tai đã được Chính phủ trình Quốc hội ngày 29/10/2012. Dự thảo Luật có 5 chương, 46 điều quy định về hoạt động phòng chống thiên tai, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động phòng chống thiên tai, quản lý nhà nước và nguồn lực bảo đảm việc thực hiện phòng chống thiên tai.../.