Làng Chính Kinh
Xã hội - Ngày đăng : 08:18, 10/04/2004
Làng Chính Kinh, nay thuộc phường Nhân Chính (quận Thanh Xuân), xưa có tên là Hoa Kinh. Theo truyền thuyết địa phương, vào thời Lý, làng mới chỉ là một xóm của trại Nhân Mục.
Năm 1032, Vua Lý Thái Tổ theo đường Lai Kinh ra Đỗ Động Giang (nay thuộc huyện Thanh Oai, Hà Tây) để cày tịch điền, lúc trở về, qua xóm trại Nhân Mục, thấy phong cảnh sầm uất, nhân dân vui mừng đón chào, bèn ban cho tên là ‘’Hoa Kinh’’, sau phát triển thành làng, nay ở cổng làng vẫn còn dòng chữ Hán ‘’Hoa Kinh lý môn’’ (cổng làng Hoa Kinh). Năm 1841, làng phải đổi tên là Minh Kinh vì kỵ húy mẹ Thiệu Trị là Hồ Thị Hoa. Đến năm 1885, vì kỵ húy Vua Hàm Nghi nên lại đổi làm Chính Kinh.
Chính Kinh là làng đông dân thứ hai trong các làng Mọc của xã Nhân Mục Môn (965 người, đầu thế kỷ XX). Làng có ba xóm là: Thọ, Đình và Bồ Đề. Xưa kia, trai đinh trong làng sinh hoạt trong hai giáp là Ninh Nhân và Nhân Mỹ. Do làng ở kề cận làng Cự Lộc nên có thời kỳ hai làng này nhập thành một đơn vị, gọi là Cự Chính, có ngôi đình chung, gọi là đình Cóc. Sở dĩ gọi như vậy vì ở hai trụ tam quan của đình có đắp hai con cóc to ngồi đối diện nhau.
Tục truyền rằng, xưa có một vị võ quan là người làng đánh trận giỏi, được vua thưởng một con cóc bằng vàng, vốn là chiến lợi phẩm. Ông đã cung tiến cả con cóc vàng đó để dân làng bán đi có tiền hoàn thiện ngôi đình đang bị xây dở. Do vậy, dân làng đã ghi ơn ông bằng cách đắp hai con cóc ở tam quan. Thực ra, con cóc là biểu hiện củu tín ngưỡng cầu mưa, thờ nước của cư dân nông nghiệp. Đình thờ Lã Đại Liệu - vị tướng phò Ngô Quyền, đã đóng quân ở Chính Kinh, đón Ngô Quyền từ Thanh Hóa ra, rồi hợp quân giết Kiều Công Tiễn và đánh đuổi quân Nam Hán năm 938. Hàng năm, dân làng cùng với làng Cự Lộc mở hội tế ông vào các ngày : 12 tháng Giêng (ngày mất) và 18 tháng Mười.
Cạnh cổng đình Chính Kinh có một giếng cổ, là một trong hai giếng thời Lý còn lại ở nước ta. Trước cửa đình có gò Nghiên, ao Bút, theo quan niệm phong thủy thì nhờ ao và gò này mà làng có nhiều người đỗ đạt, gồm một Tiến sĩ võ là Nguyễn Huy Chiểu (đỗ năm 1776), 8 Cử nhân ngạch văn, 4 Cử nhân ngạch võ.
Làng Chính Kinh có chùa Bồ Đề, có từ xưa, đến thời Lê được trùng tu. Đây là nơi trú quân của Bộ Tham mưu cánh quân quân Tây Sơn do Đô đốc Long chỉ huy để tiến sang diệt đồn Khương Thượng đầu Xuân Kỷ Dậu (1789). Chùa còn giữ được hai quả chuông đúc vào các năm Gia Long thứ 13 (1814), Tự Đức thứ 10 (1857).
Làng Chính Kinh có họ Nguyễn lớn nhất, gọi là họ‘’Nguyễn Thái Bảo’’ để phân biệt với các họ Nguyễn khác trong làng. Thủy tổ họ này là Nguyễn Khắc Uẩn (1474 - 1554), làm quan đến chức Thái bảo, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Thượng trụ quốc. Nhà thờ ông, cũng là nhà thờ chung của họ hiện vẫn còn và được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa. Về sau, người con thứ của ông là Nguyễn Khắc Trung sang ở làng Giáp Nhất, sinh ra Tiến sĩ Nguyễn Tuấn (đỗ năm 1613). Một họ Nguyễn khác là Nguyễn Hữu, có ông Nguyễn Hữu Thiêm (1702 - 1763) làm quan đến chức Tả xuân phường, Tả trung doãn, tước Mỹ Phương tử. Ông còn góp tiền của để làng xây 7 chiếc cầu trên sông Tô Lịch, trong đó có Cầu Mọc, nên được dân làng thờ ở đình. Tạo sĩ (Tiến sĩ võ) Nguyễn Hữu Chiểu cũng thuộc họ này.
Chính Kinh là quê của Luật sư Trịnh Đình Thảo, nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, nguyên Chủ tịch Liên minh các lực lượng hòa bình dân chủ miền Nam Việt Nam thời chống Mỹ.
Tiến sĩ Bùi Xuân Đính