Người cầm lái tài ba

Kinh tế - Ngày đăng : 10:02, 12/03/2004

Hai niềm vui lớn nhất trong đời người kỹ sư hoá cần cù, ham hiểu biết Bùi Quang Lanh là: Anh được Chủ tịch Trần Đức Lương tặng giải thưởng Nhà nước về công trình

Bùi Quang Lanh sinh ngày 19/10/1949 trong một gia đình nhà nho nghèo, đông con, nhưng có nề nếp và truyền thống ham học ở vùng đất chiêm trũng Kiến Xương, Thái Bình. Nhà có 9 anh chị em thì Lanh lại là con cả. Vậy nên gánh nặng gia đình sau này hầu như đè hết lên vai anh, nhất là sau khi người bố (chỗ dựa tinh thần lớn nhất của anh) mất đi, để lại mẹ già ốm yếu và một đàn em thơ dại. Những khó khăn lúc đó đối với anh có lúc tưởng chừng như không vượt qua nổi... Song bằng nghị lực, trí tuệ của mình cũng như sự cố gắng tiết kiệm, phấn đấu của cả gia đình, Bùi Quang Lanh đã vươn lên, vượt mọi thử thách, để sau này trở thành Giám đốc nhà máy Phân lân nung chảy Văn Điển. Các em của anh đều được ăn học đầy đủ, đỗ đạt, và trưởng thành những kỹ sư, bác sĩ, và những người có ích cho xã hội.

Là một học sinh giỏi, tốt nghiệp K. 13 ( 1968 - 1973 ), khoa Hoá công nghiệp và Thiết bị của Trường Đại học Bách Khoa, năm 1973 kỹ sư Bùi Quang Lanh ra trường với tấm bằng loại ưu. Năm 1974 anh đã khước từ nhiều sự lựa chọn “ ngon lành” khác để quyết định về công tác tại Cty Phân lân nung chảy Văn Điển (ngoại thành Hà Nội) với những ấp ủ muốn đem những kiến thức đã được học vận dụng vào thực tiễn, sản xuất ra những nguyên liệu, vật tư nông nghiệp tốt phục vụ hữu ích cho hơn 80% nông dân cả nước, trong đó có vùng đất Thái Bình nghèo khó quê hương anh.

Khi mới về nhận việc, -anh Lanh nhớ lại, - ở Cty Phân Lân Văn Điển đang có khó khăn lớn : Một nửa nhà máy ( gồm 2 lò cao ) bị ngừng hoạt động đã nửanăm vì hệ thống xử lý khí thải không phù hợp, bị hoá chất ăn mòn và phá thủng hết. Đội ngũ cán bộ khoa học của Cty đã mất rất nhiều công sức nghiên cứu biện pháp khắc phục, nhưng mãi vẫn chưa tìm được hướng giải quyết. Trong một tình huống rất tình cờ, Giám đốc Trần Kiểm (thời đó) đã mạnh dạn tin tưởng giao nhiệm vụ khắc phục sự cố lò cao cho người kỹ sư trẻ Bùi Quang Lanh, và ngay từ đầu anh đã xác định phải bắt tayvào công việc với tâm huyết và lòng nhiệt thành cao độ.

Trí tuệ và sự năng nổ, nhiệt tình của tuổi trẻ đã giúp Bùi Quang Lanh thành công. Chỉ sau 2 tuần khảo sát, tìm hiểu thực địa, Bùi Quang Lanh đã nhanh chóng tìm ra nguyên nhân và trình Ban Giám đốc ba phương án khắc phục khác nhau, khiến không ít người lúc đó phải ngỡ ngàng. Giám đốc Trần Kiểm rất phấn khởi, và càng tin tưởng anh hơn. Ông đãquyết định giao cho anh cùng các cộng sự nghiên cứu thiết kế phương án ứng dụng công nghệ trong nước cải tạo dây chuyền khí thải của Trung Quốc không chỉ cho 2 lò, mà cho cả 4 lò cao. Phương án lựa chọn của nhóm thiết kế Bùi Quang Lanh đã nhanh chóng được thông qua Hội đồng kỹ thuật của Tổng cục Hoá chất, mà lúc đó không ít người còn nghi ngại về sự thành công của công trình. Nhưng chỉ sau 15 ngày thiết kế và hơn 1 tháng thi công, dây chuyền khí thải đã vận hành tốt, tăng công suất thải khí lên 200%, giúp cho cả 4 lò cao hoạt động trở lại, cứu vãn nhà máy khỏi nguy cơ bị ngừng sản xuất. Chính vì thành công đó, công trình nghiên cứu của Bùi Quang Lanh đã được Tổng cục Hoá chất cũng như Ban Lãnh đạo nhà máy đánh giá rất cao, và anh xứng đáng được nhận danh hiệu “ Thanh niên sáng tạo toàn quốc “...

Những năm cuối thập kỷ 70, đầu 80, do quan hệ với Trung Quốc có nhiều căng thẳng, dẫn tới bạn đã cắt mọi nguồn viện trợ nguyên liệu, khiến Cty phải nhập ngoại than cốc loại quặng, cỡ hạt nguyên liệu 25 - 80m m rất tốn kém, trong khi chủ trương của ngành Hoá chất lại muốn mở rộng sản xuất, nâng sản lượng phân lân nung chảy từ 4 vạn tấn lên 40 vạn tấn/năm. Riêng chỉ tiêu cho Cty Phân lân Văn Điển là 10 vạn tấn/năm. Thời đó ngành sản xuất phân lân nung chảy nói chung gặp rất nhiều khó khăn.Các nhà máy Ninh Bình, Supe Lâm Thao đang xây dở phải dừng lại. Cty Phân lân Văn Điển cũng sẽ phải ngừng sản xuất nếu không kịp thời đổi mới công nghệ, sử dụng nguyên liệu trong nước...

Trước tình hình như vậy, kỹ sư Bùi Quang Lanh lại một lần nữa được giao nhiệm vụ nghiên cứu, tìm cách sử dụng nguyên liệu nội địa, dùng than gầy antraxit thay than cốc, đồng thời phải cải tiến, thay đổi tính chất thiết bị lò cao sao cho phù hợp với loại nhiên liệu mới. “Cái khó ló cái khôn”, sau nhiều ngày đêm trăn trở với vấn đề đổi mới công nghệ, thay nguồn nhiên liệu mới, cuối cùng anh Lanh và các cộng sự đã thành công trong việc xây dựng trắc đồ lò cao phù hợp với công nghệ sản xuất phân lân nung chảy bằng nhiên liệu than gầy Antraxit. Giải pháp này đã được đăng ký độc quyền sáng chế và triển khai áp dụng ngay vào sản xuất. Kết quả cả 3 lò của Cty đều được cải tạo, vận hành toàn bằng than antraxit, mà công suất tăng hơn 8 lần so với trước. Định mức tiêu hao than tại cửa lò giảm 67%, nhưng quan trong hơn là chất lượng phân lân nung chảy tốt hơn nhiều. Ngoài ra, trước kia khi dùng than cốc, lượng quặng đủ kích cỡ được đưa vào lò cao trong sản xuất chỉ đạt 65 - 70%. Còn lại là quặng mịn, không dùng được, chất thành núi chỗ bãi thải của Cty, vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa lãng phí tài nguyên, tăng giá thành sản phẩm. Giải pháp tạo chất kết dính vô cơ, đóng bánh toàn bộ lượng quặng mịn thải ra thành nguyên liệu đạt tiêu chuẩn về kích cỡ cho lò cao đã được Bùi Quang Lanh và các cộng sự áp dụng thành công : Quặng mịn đã được tận dụng, quay trở lại sản xuất, tạo thêm nhiều sản phẩm cho Cty. Đây là một giải pháp hữu ích được đăng ký độc quyền, và giải pháp này mỗi năm giúp Cty tận dụng được gần 300 ngàn tấn quặng mịn, làm lợi ra hàng chục tỷ đồng...

Biện pháp kỹ thuật được cấp bằng sáng chế và Độc quyền giải pháp hữu ích về cụm công trình lò cao của kỹ sư Bùi Quang Lanh và các cộng sự được chia làm 3 giai đoạn : Năm 1988 nghiên cứu cải tiến trắc đồ lò, cải tạo 1 lò cao của Trung Quốc có công suất 1 vạn tấn/năm, chạy bằng than cốc thành lò cao chạy bằng 100% than Antraxit. Kết quả đã nâng công suất lên 8 lần. Đến năm 1996 Cty tiếp tục cải tiến trắc đồ lò và hệ thống phụ trợ với chi phí lên tới 1,5 tỷ đồng bằng nguồn vốn tự có. Kết quả là đã đẩy công suất lò từ 4 vạn tấn/ năm lên 6 vạn tấn/năm; Công suất toàn Cty tăng từ 12 lên 18 vạn tấn phân/năm. Định mức tiêu hao than và điện đều giảm. Công trình này được Cục Sở hữu Công nghiệp cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích số HI - 0167, và được tặng Giải nhất giải thưởng Khoa học Công nghệ Vifotec năm 1998. Giai đoạn 3 Cty cải tiến trắc đồ lò cao kết hợp với sửa chữa lớn, không xin vốn đầu tư. Kết quả đã nâng công suát của mỗi lò cao lên trên 10 vạn tấn/năm, công suất của Cty tăng lên 30 vạn tấn /năm. Ngoài ra, các tham số kỹ thuật lần này cho phép thiết kế lò cao dùng than gầy Antraxit trên 10 vạn tấn với định mức tiêu hao than và điện tại lò ở mức thấp nhất từ trước tới nay.

Qua hơn 10 năm áp dụng những cải tiến kỹ thuật, Cụm công trình nghiên cứu cải tiến lò cao của kỹ sư Bùi Quang Lanh cùng các cộng sự đã mang lại hiệu quả kinh tế lớn cho Cty với việctiết kiệm gần 410 ngàn tấn than, 61 triệu KWh điện, làm lợi trên 252 tỷ đồng, góp phần quan trọng vào sự tồn tại và sự phát triển của ngành sản xuất phân lân nung chảy trong nước. Chính vì vậy, công trình này đã được Chủ tịch nước tặng giải thưởng Nhà nước về lĩnh vực khoa học kỹ thuật.

Từ tháng 5/2002, được sự tín nhiệm của TCty Hoá chất Việt Nam, kỹ sư Bùi Quang Lanh đã được đề bạt làm Giám Đốc Cty Phân lân Văn Điển. Với cương vị mới, gần hai năm qua anh đã cùng tập thể lãnh đạo Cty đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể về công tác thị trường, tổ chức sản xuất, cũng như kế hoạch đào tạo con người, hay công tác KHKT..., góp phần quyết định vào việc hoàn thành xuất sắc kế hoạch năm 2003 với tổng doanh số đạt trên 145 tỷ đồng (vượt 4%, và tăng 27% so với năm 2001). Công tác quan tâm đến đời sống người lao động được nâng cao: Hầu hết lao động đều có việc làm ổn định với mức thu nhập bình quân 2,15 triệu đồng/ người/tháng, chưatính 2 bữa ăn giữa ca. Người lao động được hưởng đấy đủ các chế độ chính sách do nhà nước quy định như mua BHXH, BHYT, khám chữa bệnh định kỳ... Những cán bộ CNV hết tuổi lao động, về hưu còn được hưởng trợ cấp theo thâm niên công tác từ quỹ phúc lợi của Cty( mỗi năm đuợc tính bằng 7 tháng lương ) nên mọi người đều hết lòng với công việc của tập thể, tin tưởng vào sự chéo lái của Ban lãnh đạo Cty mà đứng đầu là người cầm lái tài ba Bùi Quang Lanh./.

Quang Anh

TRONGQUANG