Việt Nam dùng hòa bình để đòi chủ quyền Hoàng Sa
Chính trị - Ngày đăng : 12:05, 25/11/2011
>>Toàn văn báo cáo giải trình của Thủ tướng
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn trước Quốc hội sáng nay (25/11) - Ảnh Chinhphu.vn |
Đăng đàn trước Quốc hội sáng 25/11, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, tại Kỳ họp này, Thủ tướng nhận được 11 câu hỏi chất vấn.
Các DN nhà nước sẽ phải thoái vốn ngoài lĩnh vực kinh doanh chính trước năm 2015
Trước khi trả lời các chất vấn trực tiếp tại nghị trường, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã báo cáo, giải trình thêm về một số nội dung mà nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri, người dân quan tâm, chất vấn.
Cập nhật tình hình KT-XH, Thủ tướng cho biết, trong tháng 10 và 11 tình hình kinh tế, xã hội có những chuyển biến tích cực, tốc độ tăng giá tiêu dùng tiếp tục giảm, tháng 10 là 0,36%, tháng 11 là 0,39%. Thu ngân sách đạt khá, đến ngày 15/11 đạt khoảng 98,5% kế hoạch; xuất khẩu 11 tháng tăng 34,7% so với cùng kỳ năm trước và gấp 3 lần chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua; nhập siêu 11 tháng giảm còn 10,2% kim ngạch xuất khẩu; lãi suất có xu hướng giảm…
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trước những dự báo về tình hình kinh tế thế giới còn diễn biến phức tạp. Thủ tướng cho rằng, chúng ta phải phát huy lợi thế và những kết quả đã đạt được, kiên định các giải pháp đã và đang phát huy hiệu quả, đồng thời theo sát tình hình, kịp thời xử lý những khó khăn, thách thức mới nảy sinh, điều hành linh hoạt, sát thực tế; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2011 và chuẩn bị tốt cho việc thực hiện nhiệm vụ năm 2012.
Về ổn định kinh tế vĩ mô, Thủ tướng cho biết, với những giải pháp điều hành quyết liệt, tốc độ tăng giá tiêu dùng có xu hướng giảm liên tục trong 6 tháng qua, tính chung 11 tháng tăng 17,5%. Với xu thế này, mục tiêu kiềm chế tăng giá tiêu dùng năm 2011 khoảng 18% là có khả năng thực hiện được. Chính phủ đang chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Đối với giá điện, xăng dầu, than và các hàng hoá, dịch vụ quan trọng khác, Thủ tướng đề nghị Quốc hội ủng hộ chủ trương kiên định thực hiện cơ chế giá thị trường; đồng thời, có hỗ trợ phù hợp đối với các đối tượng chính sách. Chính phủ sẽ xác định lộ trình hợp lý để thực hiện, vừa từng bước tiếp cận giá thị trường, vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và có các chính sách hỗ trợ các đối tượng chính sách.
Về các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, Thủ tướng cho biết, theo khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 9 tháng đầu năm, có trên 48.700 doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, tăng 21,8% so cùng kỳ năm 2010. Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Chính phủ đã và đang chỉ đạo thực hiện một số giải pháp chủ yếu như tập trung sức kiềm chế lạm phát, đưa lạm phát năm 2012 về 1 con số, tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi về tài chính, xem xét kéo dài thời hạn thực hiện các chính sách hiện hành về hỗ trợ thuế, rà soát các dự án bất động sản, có chính sách phù hợp, nhất là về tín dụng để tháo gỡ khó khăn cho các dự án sắp hoàn thành trong một số lĩnh vực cụ thể...
Về tái cơ cấu nền kinh tế, Thủ tướng giải trình, làm rõ thêm 3 nội dung: cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại.
Đáng chú ý, về cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng cho rằng cần phải xác định rõ chức năng của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xác định ngành nghề kinh doanh và phê duyệt phương án tổng thể tái cơ cấu, từ đó cơ cấu lại từng tập đoàn, công ty Nhà nước ngay trong năm 2011; đẩy mạnh việc cổ phần hóa các công ty Nhà nước, chỉ giữ lại những công ty xương sống và các tập đoàn nhà nước chỉ thực hiện lĩnh vực kinh doanh chính, những kinh doanh ngoài lĩnh vực chính sẽ buộc phải thoái vốn trước năm 2015.
Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng sẽ được Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp tới.
Một nội dung khác cũng được Thủ tướng giải trình là vấn đề giao thông. Thủ tướng đã đề nghị Quốc hội có Nghị quyết về vấn đề này nhằm thống nhất nhận thức và hành động trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đề cao trách nhiệm và kỷ luật kỷ cương, huy động mọi nguồn lực để thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, tạo chuyển biến mạnh mẽ, thiết thực trong việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, phấn đấu giảm dần tai nạn và ùn tắc giao thông.
Việt Nam dùng hòa bình để đòi chủ quyền Hoàng Sa
Đi vào trả lời chất vấn trực tiếp tại nghị trường, Thủ tướng đã nhận được hơn 20 ý kiến chất vấn.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Lê Bộ Lĩnh - An Giang, Đặng Ngọc Tùng – TP. Hồ Chí Minh về những giải pháp cụ thể Chính phủ thực hiện để bảo vệ chủ quyền biển đảo để ngư dân yên tâm đánh bắt cá và quan điểm và chủ trương của Chính phủ với việc dân biểu thị lòng yêu nước trước việc xâm phạm chủ quyền biển đảo, Thủ tướng cho biết, trong giải quyết các tranh chấp biển Đông, Việt Nam quán triệt đường lối giải quyết hòa bình, hữu nghị, hợp tác và tôn trọng các luật pháp quốc tế, tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo vấn đề trên biển.
Việt Nam hiện đang phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với 4 loại vấn đề trên biển Đông gồm: Đàm phán phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ; Khẳng định và giải quyết chủ quyền với quần đảo Trường Sa; quần đảo Hoàng Sa; Khẳng định và giải quyết chủ quyền trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam theo Công ước Luật biển 1982.
Thủ tướng cho biết, về chủ quyền với vùng biển trong Vịnh Bắc bộ, Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận năm 2000, còn với chủ quyền ngoài Vịnh Bắc Bộ, nếu theo Công ước Luật biển quốc tế thì thềm lục địa của nước ta có chồng lấn với vùng biển Hải Nam – Trung Quốc. Đầu năm 2010, hai bên đã đạt được thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển (DOC). Trên cơ sở nguyên tắc này, vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ là quan hệ giữa Việt Nam-Trung Quốc nên 2 nước sẽ đàm phán phân định trên cơ sở các nguyên tắc đã thỏa thuận và công ước quốc tế để có giải pháp hợp lý mà hai bên chấp nhận được. Trong khi chưa phân định, trên thực tế, với chừng mực khác nhau, hai bên đã tự hình thành vùng quản lý của mình trên cơ sở đường trung tuyến và trên cơ sở đó có đối thoại với Trung Quốc để đảm bảo an ninh, an toàn trong khai thác nghề cá của Việt Nam
Về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam khẳng định có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử rằng, hai quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việt Nam đã làm chủ thực sự hai quần đảo này ít nhất từ thế kỷ 17, khi hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ quốc gia nào và đã làm chủ trên hòa bình, lâu dài.
Quần đảo Hoàng Sa năm 1956 đã bị Trung Quốc đưa quân chiếm đóng và đến năm 1974 thì Trung Quốc đã đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý của Chính quyền Sài Gòn khi đó. Chính quyền Sài Gòn đã lên án việc làm này và đã đề nghị LHQ can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam lúc đó cũng đã ra tuyên bố khẳng định hành vi chiếm đóng này.
“Lập trường nhất quán của Việt Nam là Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết, đòi hỏi chủ quyền bằng biện pháp hòa bình”, Thủ tướng nói.
Về quần đảo Trường Sa, Thủ tướng cho biết, năm 1975, giải phóng miền Nam, hải quân ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo này. Sau đó, Việt Nam tiếp tục mở rộng thêm 21 đảo và xây dựng thêm 15 nhà giàn ở bãi Tư Chính thuộc quần đảo này để khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở vùng biển thuộc 200 hải lý đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Ở đây, hiện các nước đang chiếm một số đảo, trong đó Trung Quốc chiếm 7 đảo đá ngầm. Đài Loan chiếm 1 đảo nổi… Việt Nam hiện đang nắm giữ số đảo nhiều nhất tại đây và là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo đang đóng giữ với số hộ là 21 hộ, 80 nhân khẩu. Thủ tướng khẳng định lại, chủ trương của Việt Nam là nghiêm túc thực hiện Công ước luật biển và tuyên bố DOC cùng các nguyên tắc thỏa thuận mới đây. Việt Nam yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm có ảnh hưởng đến hòa bình của khu vực này. Đồng thời, Việt Nam tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng KTXH và cơ sở vật chất kỹ thuật ở những nơi đang nắm giữ để cải thiện đời sống và tăng cường khả năng tự vệ của người dân; có các cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bào khai thác thủy hải sản và vận tải biển trong khu vực này; nghiêm túc thực hiện và yêu cầu các bên liên quan nghiêm túc thực hiện theo đúng công ước và các nguyên tắc đảm bảo tự do hàng hải ở biển Đông bởi đây là mong muốn của tất cả các bên liên quan. Lập trường này của Việt Nam đã được quốc tế ủng hộ, thể hiện ở ASEAN và ASEAN và đối tác.
Về quan điểm với việc biểu thị lòng yêu nước bằng biểu tình, Thủ tướng khẳng định, Chính phủ luôn trân trọng, khuyến khích biểu dương, khen thưởng xứng đáng tất cả các hoạt động, việc làm của mọi người dân thực sự vì mục tiêu yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Nhưng cũng không hoan nghênh và buộc phải xử lý nghiêm theo pháp luật những hoạt động, hành vi với động cơ lợi dụng dưới danh nghĩa yêu nước, bảo vệ chủ quyền để thực hiện mục đích gây phương hại cho xã hội, đất nước.
Ban hành Luật biểu tình để đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân
Trả lời chất vấn của đại biểu Đỗ Văn Vẻ - Thái Bình về cơ sở để Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Biểu tình, Thủ tướng cho biết, trước hết là để thực hiện hiến pháp. Mặt khác, thực tế cuộc sống cho thấy, có nhiều cuộc người dân tụ tập đông người để bày tỏ nguyện vọng, ý kiến với chính quyền nhưng chưa có luật để quản lý, điều chỉnh nên cũng khó cho cả người dân và quản lý Nhà nước, làm xuất hiện những biểu hiện mất an ninh trật tự và những việc lợi dụng để kích động, xuyên tạc, gây phương hại xã hội; Quốc hội khóa trước cũng đã có văn bản yêu cầu Chính phủ ban hành nghị định quản lý, điều chỉnh hiện tượng này nhưng nghị định Chính phủ có hiệu lực thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra nên Chính phủ mới kiến nghị xem xét để có Luật biểu tình phù hợp với Hiến pháp và đặc điểm lịch sử, văn hóa, điều kiện cụ thể của Việt Nam và các thông lệ quốc tế, đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân, ngăn chặn những hành vi, việc làm gây xâm hại đến an ninh trật tự, lợi ích xã hội và nhân dân.
Tạm dừng cấp phép mới cho khai thác khoáng sản
Chất vấn của đại biểu Lê Hồng Tịnh - Hậu Giang về chủ trương khai thác khoáng sản được Thủ tướng trả lời, vừa qua, Chính phủ đã tiến hành điều tra thăm dò khoáng sản và xây dựng nhiều quy hoạch sử dụng, góp phần đưa hoạt động này vào nề nếp nhưng đúng là việc khai thác, sử dụng còn nhiều bất cập. Chính phủ đã có thảo luận chuyên đề về việc này và chỉ đạo một số giải pháp lớn:
Thứ nhất, Chính quyền các địa phương, cơ quan chức năng ngăn chặn bằng được việc khai thác không phép, trái phép gây bức xúc, không thể nói có khai thác mà chính quyền không biết.
Thứ hai, tạm dừng cấp phép khai thác các khoáng sản mới và tiến hành rà soát các dự án đang khai thác, dự án nào gây ô nhiễm môi trường, trái giấy phép, gây hư hỏng đường sá, mất ANTT thì cho dừng.
Thứ ba, rà soát, bổ sung quy hoạch theo hướng khai thác, chế biến sâu có hiệu quả cao nhất; kiểm soát xuất khẩu ngay từ các dự án, nếu trái quy định, giấy phép đều đình hoãn, đúng giấy phép nhưng nếu thấy xuất khẩu không có lợi thì cũng có giải pháp thích hợp để dừng lại nhằm chế biến sâu hơn.
Thứ tư, việc cấp phép các dự án khai khoáng mới phải đi kèm với dự án khả thi đã được thẩm định các mặt, thật sự đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường, an ninh trật tự…
Thủ tướng cũng cho biết, Chính phủ cũng đã yêu cầu Bộ Tài chính tăng thêm ngân sách phục vụ cho khảo sát điều tra các loại khoáng sản trên địa bàn cả nước để biết chúng ta có gì, từ đó mới có hoạch định chiến lược, hiện ta mới thăm dò được 50% diện tích đất liền.