Thủy Sơn Kiển
Sách - Ngày đăng : 10:06, 30/08/2011
Kiển đúng nghĩa là thọt chân, tàn phế, sinh ra phiền não vì trước sau đều có nguy hiểm, tiến thoái đều khó khăn. Kiển cần một giải pháp đối phó với hoàn cảnh cẩn thận, hoặc giả ngồi kiên trì đợi thời điểm cái xấu qua đi, không nên mưu sự gì. Kiển cũng là tượng đá ngầm dưới nước, đi lại khó khăn vướng víu. Quẻ này nhắc đến câu ngạn ngữ “khuất mắt trông coi” để nói về các yếu tố tàng ẩn bên trong sự việc mới là quyết định, mà chỉ đối với người có nhãn quan sâu xa thì cách nhận định tình hình sẽ chính xác.
Thời Chiến quốc, nước Tấn và nước Sở đánh nhau ở thành Bộc, thấy binh lực nước Sở mạnh hơn, Tấn Văn Công bàn với Hồ Yển về cách dùng binh pháp. Yển nói: Thần nghe nói người trọng lễ tiết không ngại phiền toái; người giỏi chiến trận không ngại dối trá. Bệ hạ cứ dùng binh pháp dối trá là được. Tấn vương lại hỏi Lý Ung, tuy không tán thành nhưng vì tình thế, Ung nói: Tát cạn ao thì bắt được hết cá, nhưng sang năm không còn cá để bắt nữa. Đốt sạch rừng bắt hết dã thú, nhưng năm sau không còn thú để săn nữa. Hiện tại tuy miễn cưỡng sử dụng phép dối trá, nhưng sau này không thể tái sử dụng được. Đó không phải là kế sách lâu dài. Kiển có triệu vũ tuyết tại đô (mưa tuyết ngăn đường). Màu sắc của Kiển là xanh lơ - vàng, diễn tả nỗi nhọc nhằn, bất lực không rõ nguyên nhân. Mỗi khi khó khăn ập đến, con người ta thường mong muốn sự giúp đỡ của tự nhiên (bất ngờ, may mắn) và con người (quyền lực, sức mạnh). Nhưng lúc đó cần phải hiểu rõ tình cảnh của mình, tránh mạo hiểm vô ích mới là cách nghĩ của bậc trí giả. Muốn như vậy, ta cần biết những điều sau:
1. Áp dụng phương pháp lấy nhu khắc chế cương, mềm mỏng kéo dài thời gian để nắm chắc tình thế, xác định phương hướng để hành động. Ngược lại nếu không có chủ kiến cụ thể mà dựa vào người khác bày mưu lớn sẽ bị thiệt mạng. Sử chép sau khi Hán Đế chết, quyền lực triều đình rơi vào tay Hà Thái Hậu và anh trai là Hà Tiến. Lúc đó bè lũ hoạn quan đang lộng hành làm loạn kỷ cương phép nước, nên Hà Tiến bàn với Thái Hậu tiến hành diệt trừ hoạn quan. Vì Thái Hậu không đồng ý nên Hà Tiến lại do dự, sợ không đủ lực lượng, bèn gửi thư mời Đổng Trác đem quân vào thành, mặc dù nhiều người can ngăn. Khi quân của Trác bắt đầu chuẩn bị tấn công thành, Hà Tiến vừa giục Thái Hậu đồng ý cho diệt hoạn quan vừa phái người đến doanh trại ngăn Trác đưa quân vào thành, nhưng quân của Trác vẫn tràn vào thành ép Thái Hậu phải đuổi hết hoạn quan, trừ kẻ cầm đầu vẫn được ở lại. Thế là bọn hoạn quan bày mưu giả truyền lệnh Thái Hậu gọi Hà Tiến vào cung rồi giết chết.
2. Trong những tình thế quá khẩn cấp thì cần quyết định mạo hiểm, dựa vào cơ trí của mình để vượt qua nguy hiểm. Nếu nhu nhược không có quyết định, thì chỉ ngồi bó tay chờ chết. Trong Tam quốc, khi Mã Tốc làm mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng Khổng Minh vội ra lệnh cho các cánh quân kéo đi ứng cứu và chặn địch từ xa. Ngay sau đó, Tư Mã Ý đột nhiên dẫn 15 vạn quân đến Dương Bình Quan, nơi Khổng Minh đang đóng quân gồm 2.500 lính già yếu, bệnh tật và cũng không có lương thảo. Trước tình thế khó bảo toàn được tính mạng ấy, Khổng Minh ra lệnh thu hết cờ xí lại, mở rộng bốn cửa thành, cho các lính già ra quét dọn đường sá, còn mình dẫn hai tiểu đồng trèo lên mặt thành ngồi gảy đàn, uống rượu. Quân tiên phong thấy vậy bèn báo cho chủ tướng, Tư Mã Ý cưỡi ngựa đến đích thân thị sát và kết luận: Lượng thường ngày rất cẩn thận, tuyệt đối không bao giờ mạo hiểm. Nay hắn mở rộng cửa thành tất có mai phục ở đó. Nếu ta tiến quân ắt trúng kế của hắn. Bèn ra lệnh rút quân ngay. Vậy là Gia Cát Lượng cả cười.
3. Trong những thời điểm chưa quá nguy hiểm, gấp gáp thì cần tranh thủ thời gian, chủ động, sáng tạo, nhanh chóng giành thắng lợi trước để có cơ sở tính toán tiếp theo. Thời Nam Tống, Đại tướng Nhạc Phi đánh trận luôn luôn biến hóa, không bao giờ cần bày binh bố trận, cứ thấy lợi thế là xông lên đánh luôn. Khi quân Kim đánh chiếm được Nam Kinh, Nhạc Phi quyết chiến đấu lấy lại Kinh thành. Ông cho mấy trăm binh sĩ mặc quần áo của địch trà trộn vào trại Kim, nửa đêm phát lệnh tấn công, thế là quân địch không biết ai với ai quay ra chém giết lẫn nhau, kết quả bị tổn thất nặng nề và phải rút chạy. Hoặc như thời nhà Lý ở nước ta, danh tướng Lý Thường Kiệt chủ trương ngồi im đợi giặc không bằng đem quân đánh trước để chặn thế giặc mạnh. Biết mưu đồ nhà Tống chuẩn bị lực lượng đánh nước ta, Lý Thường Kiệt dẫn 10 vạn quân tấn công sang đất Tống, tiêu diệt các cứ điểm quân sự dọc biên giới phía Bắc, đặc biệt là hạ hai thành quan trọng Khâm Châu và Ung Châu, làm kế hoạch xâm lược của nhà Tống bị đảo lộn và phải thêm một năm nữa (1077) mới thực hiện được và cũng bị thất bại ở bờ sông Như Nguyệt.
4. Cần tranh thủ các lực lượng có chung chí hướng, chiêu mộ các nhân tài để cùng giúp hành động thành công. Nhiều khi chỉ nhờ kỳ kế của một cá nhân xuất sắc cũng góp phần làm nên thành công của một triều đại. Thời kỳ đầu Tây Hán, Trần Bình tuy xuất thân nhà nghèo, đã đi theo hai chủ nhưng không thấy tương lai nên sau chọn Lưu Bang để phò trợ. Ông đã nghĩ ra những kế sách lập công lớn như: Ly gián Hạng Vũ và Phạm Tăng; tìm người đóng giả để Lưu Bang thoát hiểm; phong cho Hàn Tín làm Tề vương để vỗ về không nổi loạn; khuyên Lưu Bang bỏ nghị hòa để đánh, bức Hạng Vũ phải tự tử; dùng mưu bắt sống Hàn Tín không tốn một quân lính; giúp Lưu Bang giải vây cho mấy chục vạn quân Hán… Ông làm Tể tướng 3 triều, là Tướng quốc có tài thao lược nhất trong các triều đại Hán.
5. Trong hoàn cảnh khó khăn, vừa phải giữ vững ý chí, bình tĩnh đối phó với địch nhưng phải đoàn kết được số đông, được mọi người cùng giúp đỡ thì mới có thể thắng lợi được. Thời Xuân Thu, Tề Mẫn Vương chấp chính tàn bạo, khắp nước đều ca thán oán giận. Năm 284, Tướng nước Yên là Nhạc Nghị lấy cớ trừ hôn quân, chỉ huy quân đội 5 nước liên thủ tấn công nước Tề, chiếm gần hết nước Tề, chỉ còn thành Tức Mặc do Điền Đan chỉ huy trấn thủ là không hạ được. Để cùng nhân dân trong thành đồng lòng đoàn kết vượt qua nguy hiểm, Điền Đan cùng quân sĩ xây công sự phòng ngự, cho họ hàng, vợ con của mình tham gia giữ thành, dùng kho lương dự trữ dành cho quân sĩ và phân tích những tội ác tàn bạo của quân Yên để kích động sĩ khí quân Tề. Quân dân toàn thành vì thế rất xúc động, trên dưới một lòng, kiên cường chiến đấu khiến cho quân Yên không sao phá được thành Tức Mặc. Đợi khi quân địch mệt mỏi, Điền Đan bày trận Hỏa Ngưu, buộc rơm vào thân trâu, đốt lửa cho chạy vào trận quân Yên, khiến toàn quân rối loạn, quân Tề thừa thắng xông ra phản công đánh tan quân giặc, thu lại 70 thành trì đã bị mất.
6. Đang rơi vào thế bất lợi, nguy hiểm mà được người thông thái, tài giỏi giúp sức thì chắc chắn sẽ gặp may. Nhưng ai cũng tự nhận mình là trí-dũng, ít ai tự nhận là tầm thường, vì thế chỉ trong hoàn cảnh thực tế khó khăn mới rõ mặt quân tử. Thời Xuân Thu, Mạnh Thường Quân làm Tướng quốc nước Tề, cho mời hơn 3.000 khách đến nhà. Trong số đó, có cả những người tài và những kẻ cơ hội đều ăn nhờ ở đậu để nhờ vả ông ta. Tất cả bọn họ đều được đối xử như anh em ruột thịt và đều được tin cậy. Một thời gian sau, do nguyên nhân khách quan, Mạnh bị bãi chức, thế là tất cả thực khách nối đuôi nhau rời bỏ ông mà đi, chỉ còn lại một người là Phùng Quán. Chính nhờ sự giúp đỡ của Phùng, Mạnh Thường Quân lại được phục chức Tướng quốc. Phùng Quán mới đúng là bậc chính nhân quân tử trong mấy ngàn con người!