Chia sẻ trách nhiệm hay bắt buộc?
Kinh tế - Ngày đăng : 06:39, 14/05/2011
Doanh nghiệp thay Cục Dự trữ quốc gia?
Đúng 7 năm kể từ ngày thành lập quỹ dự trữ phôi thép quốc gia và bù lãi suất cho vay đối với các DN nhập phôi của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) nhằm bình ổn thị trường thép không thể hiện thực hóa, cơ quan quản lý nhà nước này lại đang trưng cầu ý kiến DN dự thảo quyết định "dự trữ lưu thông bắt buộc với một số mặt hàng thiết yếu", trong đó có thép và phôi thép. Chỉ khác là, lần này Bộ Công thương yêu cầu DN (thay vì Cục Dự trữ quốc gia) thực hiện dự trữ bắt buộc với mặt hàng thép và phôi thép.
Dây chuyền sản xuất tại Công ty Thép Nam Khánh. Ảnh: Như Ý |
Theo đó, mức dự trữ lưu thông bắt buộc tối đa dự kiến: 10% lượng thép và 5% lượng phôi thép mà thương nhân nhập khẩu năm trước (với thương nhân nhập khẩu); 3% lượng phôi thép mà thương nhân đã sản xuất năm trước (với thương nhân sản xuất phôi thép). Trong trường hợp thương nhân sản xuất phôi thép đồng thời là thương nhân nhập khẩu thép, phôi thép thì căn cứ vào thị phần lớn hơn để áp dụng. Giá mua hàng hóa đưa vào dự trữ lưu thông thực hiện theo cơ chế giá thị trường. Giá bán lẻ hàng hóa dự trữ lưu thông bắt buộc thấp hơn giá thị trường tại thời điểm bán ra ít nhất 10%, giá thị trường do Bộ Tài chính công bố tại thời điểm bán ra.
Bộ Công thương cho rằng, phôi thép là nguyên liệu đầu vào chiếm khoảng 80% trong việc hình thành giá thép thành phẩm. Trong khi phôi sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu, 40% còn lại phải nhập khẩu; giá thép trong nước chịu ảnh hưởng nhiều từ biến động giá phôi thép trên thế giới, vì vậy để góp phần bình ổn thị trường thép, việc quy định dự trữ lưu thông bắt buộc đối với phôi thép (chủ yếu là phôi vuông dùng trong sản xuất thép xây dựng) là cần thiết. Cũng theo Bộ Công thương, trong khi nguồn lực từ quỹ dự trữ quốc gia có hạn, dự trữ lưu thông bắt buộc sẽ là giải pháp thiết yếu nhằm chia sẻ trách nhiệm giữa nhà nước và DN khi cung - cầu có sự bất ổn lớn, nhất là khi nguồn cung giảm đột biến. Theo đó, đối tượng dự trữ lưu thông là những DN có thị phần lớn, có khả năng đáp ứng nghĩa vụ này. Với nguồn lực của mình, các DN đủ lớn này sẽ phải thực hiện nghĩa vụ thông qua việc hình thành một nguồn dự trữ ổn định và đủ sức đối phó với những bất ổn cung - cầu trong phạm vi toàn quốc.
Quy định dự trữ lưu thông bắt buộc sẽ giảm bớt được cơ bản nguồn lực của nhà nước, DN cũng có lợi khi thực tế trong hoạt động SXKD của mình đã luôn tồn tại hoạt động dự trữ nhất định; đặc biệt khi cơ chế dự trữ lưu thông bắt buộc ra đời, Nhà nước sẽ có những biện pháp hỗ trợ thông qua các cơ chế ưu đãi như lãi suất tín dụng, miễn, giảm thuế.
Mức tiêu thụ thép chỉ đạt 50-60%
Theo thống kê của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), tính đến hết tháng 3-2011, tổng công suất sản xuất các loại thép xây dựng cả nước đạt gần 9 triệu tấn/năm. Trong khi đó, tổng sản lượng thép xây dựng bán ra của cả nước năm 2010 mới đạt hơn 6,3 triệu tấn. Như vậy, mức tiêu thụ thép hiện nay chỉ chiếm 50-60% công suất sản xuất thép xây dựng của các công ty. Trong khi đó, các công ty sản xuất thép xây dựng trong VSA đều dự trữ khoảng 500.000 tấn phôi thép, 300.000 tấn thép xây dựng thành phẩm, chưa kể số phôi thép và sản phẩm tồn ở các công ty thương mại. Vì vậy, số lượng phôi và sản phẩm tồn hằng tháng cao hơn nhiều so với mức quy định dự trữ trong dự thảo của Bộ Công thương.
Thực tế thị trường trong nước những năm qua chưa bao giờ thiếu thép xây dựng. Sự biến động giá thép trên thị trường, không phải do thiếu thép mà chủ yếu do biến động giá nguyên liệu, như giá quặng sắt, giá than, xăng dầu, phôi thép, giá thép phế. Thêm vào đó, rất khó xác định được giá thị trường chung cho sản phẩm thép, bởi ngay ở cùng một thời điểm xác định, giá thép bán tại miền Nam đã khác so với miền Bắc, giá thép giữa các thương hiệu khác nhau cũng chênh nhau khá nhiều. Vì vậy, việc quy định giá "bán lẻ hàng hóa dự trữ lưu thông bắt buộc thấp hơn giá thị trường tại thời điểm bán ra ít nhất 10% chỉ có lợi cho các công ty trung gian, không có lợi cho người sử dụng. Bài học của những năm trước đã áp dụng ở một số công ty cho thấy: Quy định giá bán thấp như vậy sẽ hình thành cơ chế xin - cho, dễ phát sinh tiêu cực trong khâu lưu thông, Nhà nước chịu thiệt mà người tiêu dùng không được hưởng.
Với nền kinh tế đã hội nhập, giá thép trong nước chịu ảnh hưởng khá nhiều của giá thép thế giới, nên khi giá thép thế giới lên, giá thép trong nước cũng điều chỉnh theo. Tuy nhiên, việc lựa chọn một số DN làm đầu mối dự trữ hàng hóa và phân phối sẽ tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh, trái với quy luật của nền kinh tế thị trường. VSA cho biết, mặc dù công suất sản xuất phôi thép trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất thép, nhưng trên thực tế nhiều DN sản xuất thép, nhất là các công ty liên doanh vẫn chọn cách nhập khẩu phôi thép cho sản xuất và lượng phôi thép nhập khẩu vẫn chiếm khoảng 30%. Nguyên nhân không chỉ do giá phôi thép trong nước nhiều lúc cao hơn giá phôi thép nhập khẩu mà còn do chất lượng phôi thép sản xuất trong nước chưa bằng phôi thép nhập khẩu.
Vì vậy, để kích cầu tiêu dùng phôi thép trong nước, bảo đảm ổn định cung - cầu thị trường, đồng thời hạn chế nhập khẩu phôi thép nhằm tiết kiệm ngoại tệ... Chính phủ cần có các giải pháp hỗ trợ DN đầu tư thiết bị và công nghệ sản xuất tiên tiến để cho ra sản phẩm phôi thép chất lượng cao, tạo niềm tin tiêu dùng cho nhà sản xuất. Bên cạnh đó, vào những thời điểm giá phôi thép biến động mạnh, cơ quan quản lý có thể sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh giá phôi thép, bởi hiện mức thuế nhập khẩu phôi thép vẫn là 7%.