Hà Nội vẫn hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp

Kinh tế - Ngày đăng : 13:21, 18/04/2011

(HNMO) – Theo nghiên cứu mới đây của Colliers International (chuyên về các dịch vụ bất động sản hàng đầu thế giới): các khu công nghiệp (KCN) ở Vĩnh Phúc và Bắc Ninh đang có tỷ lệ lấp đầy cao nhất, tuy vậy Hà Nội vẫn là địa điểm được tìm kiếm nhiều nhất đối với các nhà đầu tư.



Trước khi mở rộng địa giới Thủ đô, các KCN tại Hà Nội luôn trong tình trạng lấp đầy toàn bộ, tuy vậy sau khi sáp nhập, tình thế đã thay đổi do có nhiều diện tích từ tỉnh Hà Tây cũ và các KCN mới.

Tính đến cuối năm 2010, trên địa bàn cả nước, các KCN, khu chế xuất (KCX) đã thu hút được hơn 8500 dự án đầu tư với trên 70 tỷ USD vốn đầu tư, trong đó trên 50 tỷ USD là vốn đầu tư nước ngoài. Con số này chiếm gần 36% tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam và 73% của tổng số FDI trong sản xuất. Do vậy, có thể nói các KCN là một trong những điểm đến trọng yếu đối với FDI tại Việt Nam.

Tính đến cuối tháng 9/2010, có 254 KCN và KCX, trong đó 171 khu đã đi vào hoạt động, có mặt tại 57 trong tổng số 66 tỉnh thành của Việt Nam. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm tạo ra bởi các KCN và KCX ước tính khoảng 20-25 tỷ USD, trong khi tổng sản phẩm quốc nội GDP năm 2010 đạt mức 101 tỷ USD.



Khu công nghiệp Bắc Thăng Long - Hà Nội.


Các KCN và KCX có các chính sách ưu đãi và cơ sở hạ tầng có chất lượng từ lâu đã hấp dẫn nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn 5 năm từ 2001-2005, đã có 1377 dự án trong KCN và KCX với tổng vốn đầu tư đạt 8,08 tỷ USD, so với chỉ 155 dự án và 1,55 tỷ USD vốn trong các năm 1996-2000. 5 năm tiếp theo, từ 2006-2010 cho thấy mức tăng ấn tượng trong cả số lượng các dự án FDI mới, 2.309 dự án và tổng vốn đầu tư 42 tỷ USD.

Cho tới tháng 9/2010, đã có 3841 dự án FDI và 4617 dự án đầu tư trong nước đã được thực hiện tại các KCN và KCX Việt Nam với hơn 17 tỷ USD và 130 nghìn tỷ đồng vốn giải ngân, chiếm tới 33% và 43% tổng vốn đăng ký tương ứng. Các số liệu trên đây thể hiện rõ sức sống mạnh mẽ của lĩnh vực này theo thời gian.

Xét về nguồn gốc của các nhà đầu tư tại KCN, Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc là những nước, vùng lãnh thổ có lượng vốn đầu tư lớn nhất tại các KCN của Việt Nam. Các nước và vùng lãnh thổ này thậm chí còn tự mở một số KCN chỉ chấp nhận các nhà đầu tư đến từ chính nước đó, hoặc một lĩnh vực cụ thể riêng biệt. Trong số các yếu tố khác, khoảng cách địa lý và chi phí lao động thấp cũng giải thích tại sao các nước này đã tích cực tham gia hoạt động tại Việt Nam.

Suy thoái kinh tế trong giai đoạn 2007-2009 dường như không làm ảnh hưởng đến giá thuê tại các KCN ở các tỉnh phía Bắc. Giá thuê trung bình năm 2010 đã tăng lên đến 58USD/m2/thời hạn hoạt động còn lại, so với 41,3USD/m2 trong năm 2008. Lạm phát tăng, chi phí vật liệu xây dựng tăng, tuy nhiên tỷ lệ lấp đầy trong các KCN/KCX trung bình lại giảm vừa phải, từ 69% xuống 54% trong cùng kỳ.

Các KCN hoạt động tốt nhất tiếp tục thực hiện giá thuê cao, trong khi nguồn cung mới đến từ các giai đoạn tiếp theo vẫn đang xuất hiện, điều này phản ánh niềm tin của nhà đầu tư đối với tăng trưởng công nghiệp ngắn và trung hạn. Trên thực tế, sự chú ý đã chuyển dịch sang các khách thuê trong nước với khả năng tích cực thúc đẩy cơ sở sản xuất, hơn là chỉ tập trung vào các nhà đầu tư nước ngoài bởi những khách thuê này nhạy cảm hơn đối với cuộc khủng hoảng toàn cầu.

Tại Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng và Vĩnh Phúc sẽ tiếp tục là trung tâm thu hút các nhà đầu tư, cùng với Thái Nguyên và Hưng Yên đang trở nên ngày càng hấp dẫn do có vị trí chiến lược gần với cả cảng biển, sân bay và biên giới với Trung Quốc, cơ sở hạ tầng tốt và nền kinh tế mạnh.

Trong thời gian qua, Chính phủ đã xác định việc phát triển các KCN là động lực chính của tăng trưởng công nghiệp và đưa ra nhiều ưu đãi đáng kể dành cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN. Các công ty này hưởng lợi từ chính sách thuế ưu đãi, thủ tục đầu tư đơn giản, hỗ trợ trong việc cung cấp lao động và các nguồn lực khác. Tuy nhiên, theo phản ảnh của các nhà đầu tư, các chính sách hiện hành vẫn phát sinh những vấn đề nhất định. Đáng chú ý, việc thiếu nguồn lao động có tay nghề, lương tăng, các vấn đề với việc phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp, cảng biển kém phát triển và sự phức tạp của khuôn khổ pháp lý và thuế hiện tại là những tác nhân khiến nhà đầu tư phải cẩn thận xem xét vị trí nào phù hợp nhất tại Việt Nam dành cho loại hình kinh doanh của họ.

Ghi nhận của Colliers International cũng cho biết, khách thuê và nhà đầu tư thường thỏa thuận diện tích thuê thông qua quyền sử dụng đất cho thời hạn hoạt động còn lại của KCN, trên đó cơ sở của nhà đầu tư được xây dựng với vốn tự có. Những quyền sử dụng đất này có giá dao động vào khoảng 20-200USD/m2 cho khoảng thời gian bằng với thời hạn hoạt động còn lại của KCN. Theo luật, thời hạn ban đầu luôn là 50 năm, nhưng thông thường thời hạn thực bị giảm bởi một khoảng thời gian giải phóng mặt bằng và san lấp nền.

“Những năm tới sẽ là một thời kỳ vô cùng quan trọng đối với ngành công nghiệp tại Việt Nam. Chúng tôi dự đoán rằng giá thuê đất sẽ tiếp tục tăng cao, trong mối tương quan chặt chẽ với nhu cầu và lạm phát. Tỷ lệ lấp đầy sẽ tăng ở mức vừa phải, thúc đẩy bởi sự hồi phục của ngành sản xuất công nghiệp. Nhiều địa điểm mới vẫn chưa đủ sức cạnh tranh so với những khu vực hiện đang thu hút nhiều chú ý nhất nhờ có những lợi thế lớn về vị trí, cơ sở hạ tầng và kinh tế” – các chuyên gia về phát triển kinh doanh, nghiên cứu thị trường và định giá của Colliers International nhận xét.

L.H