Toàn văn báo cáo giải trình và trả lời chất vấn của Thủ tướng tại Quốc hội
Chính trị - Ngày đăng : 17:15, 24/11/2010
CHÍNH PHỦ ______ Số: 176/BC-CP | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _____________________________________ Hà Nội, ngày 24tháng 11năm 2010 |
BÁO CÁO GIẢI TRÌNH VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN
CỦA THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG
tại Kỳ họp thứ tám, Quốc hội Khoá XII
__________
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa đồng bào đồng chí,
Trước hết, thay mặt Chính phủ, tôi xin chân thành cảm ơn Quốc hội đã cơ bản đồng tình với Báo cáo của Chính phủ và đã thông qua các Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2011. Chính phủ sẽ nỗ lực phấn đấu để đạt kết quả cao nhất các nhiệm vụ của năm 2010 và khẩn trương triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 2011.
Tại Kỳ họp này, đến chiều hôm qua, đã có 89 đại biểu Quốc hội gửi 214 chất vấn đến Thủ tướng và các thành viên Chính phủ; trong đó, có 26 chất vấn Thủ tướng Chính phủ với 44 câu hỏi. Chính phủ đánh giá cao các vị đại biểu Quốc hội đã quan tâm chất vấn về những vấn đề rất thiết thực trong quản lý điều hành của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các thành viên Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ được giao, trả lời bằng văn bản đến các vị đại biểu Quốc hội. Hai ngày qua đã có 4 Bộ trưởng trực tiếp và 2 Phó Thủ tướng cùng 5 Bộ trưởng đã tham gia trả lời chất vấn tại Hội trường. Hôm nay, thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo giải trình thêm về một số nội dung mà nhiều đại biểu Quốc hội và đồng bào cả nước quan tâm, chất vấn. Đây cũng là những công việc mà Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo trong thời gian tới.
I. VỀ KIỀM CHẾ LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT GIÁ CẢ
Về vấn đề này, các Bộ trưởng đã gửi văn bản trả lời chất vấn của Đại biểu và đãphát biểu giải trình. Tôi xin báo cáo thêm một số nội dung sau:
Diễn biến giá tiêu dùng trong năm nay cũng theo quy luật tăng cao vào quý I, giảm dần và tương đối ổn định trong quý II và tăng trở lại vào các tháng cuối năm. Đến hết tháng 11, giá tiêu dùng tăng 9,58% so với tháng 12 năm 2009, trong đó, giá lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng tăng gần 13%, nhóm hàng hoá và dịch vụ giáo dục tăng 19%, giá vàng tăng 23,31%.
Tình hình giá cả tăng cao trong những tháng gần đây trước hết do biến động tăng mạnh của giá thế giới. Ở trong nước, kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá, mặt khác việc tiếp tục thực hiện lộ trình chuyển sang cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hoá, dịch vụ do nhà nước quản lý giá cùng với thiên tai lũ lụt đã làm tăng thêm căng thẳng trong quan hệ cung cầu và tạo áp lực tăng giá. Những tháng cuối năm, nhu cầu tiêu dùng vật tư, hàng hoá tăng cao, biến động về giá vàng và tỷ giá cũng tác động làm tăng giá cả thị trường.
Để tiếp tục kiểm soát giá cả, kiềm chế lạm phát, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 1875ngày 11 tháng 10 năm 2010 về việc tăng cường thực hiện các biện pháp bình ổn giá cả thị trường trong thời gian tới, giao các Bộ, cơ quan và Chính quyền địa phương tổ chức thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ với các trọng tâm sau đây:
- Tập trung tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, ưu tiên nguồn lực cho các địa phương vùng bị lũ lụt sớm khôi phục sản xuất, bảo đảm lưu thông và cung cấp hàng hoá kịp thời cho nhân dân, không để xảy ra tình trạng khan hàng, sốt giá.
- Giữ ổn định giá một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào cơ bản của nền kinh tế như điện, than bán cho các hộ sản xuất: điện, xi măng, giấy, phân bón; sử dụng linh hoạt công cụ thuế, phí, quỹ bình ổn giá để ổn định giá xăng dầu ở mức phù hợp.
- Điều hành các công cụ tài chính, tiền tệ linh hoạt theo cơ chế thị trường, bảo đảm nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng và cho cả nền kinh tế, cân đối tiền - hàng trong lưu thông. Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả chi ngân sách nhà nước...
- Bộ Công Thương và các địa phương triển khai các chương trình bình ổn thị trường, giá cả; bảo đảm cung cấp đủ các mặt hàng thiết yếu và các hàng hoá phục vụ Tết, tạo điều kiện cho nhân dân ở các vùng miền trên cả nước, nhất là các vùng nông thôn, miền núi có điều kiện tiếp cận nguồn hàng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về giá, đặc biệt là việc chấp hành các quy định về đăng ký, kê khai và niêm yết giá, trong đó tập trung vào các mặt hàng thiết yếu, chống đầu cơ tăng giá, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và xử lý nghiêm việc đưa tin không chính xác tạo bất ổn trên thị trường.
Tình hình giá cả thị trường đang có những diễn biến phức tạp, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiểm soát giá cả, nhất là trong dịp Tết nguyên đán. Về lâu dài phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, giảm mạnh nhập siêu; tạo cơ sở vững chắc để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
II. VỀ KHAI THÁC, CHẾ BIẾN BÔ - XÍT VÀ TRIỂN KHAI THÍ ĐIỂM HAI DỰ ÁN TÂN RAI VÀ NHÂN CƠ
Tôi xin báo cáo giải trình thêm một số nội dung sau đây:
Tài nguyên quặng bô - xít để sản xuất alumin,nhôm của nước ta là rất lớn, trữ lượng dự báo khoảng 11 tỷ tấn, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên. Việt Nam là nước có trữ lượng bô - xít hàng đầu thế giới, có thể cung cấp lâu dài nguyên liệu để phát triển ngành công nghiệp alumin, nhôm ở nước ta.
Việc thăm dò, khai thác, chế biến bô - xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng. Để triển khai chủ trương này, trong 2 nhiệm kỳ qua, Chính phủ đã 3 lần báo cáo và đã được Bộ Chính trị thảo luận, có kết luận chỉ đạo, 1 lần báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng và 1 lần báo cáo Quốc hội. Các chủ trương, chỉ đạo đã nêu rõ việc khai thác, chế biến bô - xít gắn với xây dựng ngành công nghiệp sản xuất alumin, nhôm nhằm phục vụ phát triển kinh tế của đất nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Tây Nguyên; Nhà nước cần tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư; việc triển khai phải bảo đảm lợi ích trước mắt, lâu dài và bền vững; có bước đi thích hợp, từ nhỏ đến lớn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, an ninh, quốc phòng; sử dụng thiết bị và công nghệ hiện đại; trên cơ sở kết quả của 2 dự án Tân Rai và Nhân Cơ tổ chức rút kinh nghiệm để bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch và kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo.
Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành chức năng, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản và các địa phương liên quan thực hiện đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước; trong đó đã chỉ đạo xây dựng, thẩm định, phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác chế biến, sử dụng quặng bô - xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến 2025 theo đúng quy định của pháp luật, với bước đi cụ thể, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng Tây Nguyên và quy hoạch mạng lưới kết cấu hạ tầng (giao thông vận tải, cảng biển, điện, nước...). Trên cơ sở kết quả điều tra mới nhất về trữ lượng bô - xít và thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, ý kiến góp ý của một số đại biểu Quốc hội, cán bộ lão thành cách mạng, nhà khoa học,… Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công Thương chủ trì rà soát, bổ sung và hoàn chỉnh Quy hoạch chung về bô - xít, lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược cho Quy hoạch này và khẩn trương trình duyệt theo quy định; đồng thời, tập trung chỉ đạo triển khai thí điểm 2 dự án Tân Rai và Nhân Cơ.
Thủ tướng Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản làm chủ đầu tư triển khai thí điểm 2 Dự án khai thác, chế biến bô - xít. Quá trình lập, thẩm định và phê duyệt 2 Dự án này được tiến hành chặt chẽ theo đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các địa phương Lâm Đồng và Đắk Nông đều mong muốn và ủng hộ việc triển khai Dự án.
Tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII, một số đại biểu Quốc hội đã có ý kiến về các dự án bô - xít Tây Nguyên. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành thực hiện việc kiểm tra, tính toán, đánh giá lại hiệu quả kinh tế và tác động môi trường đối với các dự án, đặc biệt chú ý thẩm định thiết kế kỹ thuật hồ bùn đỏ, bảo đảm an toàn lâu dài đối với môi trường. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu, căn cứ vào kết quả đánh giá lại, nếu Dự án thực sự hiệu quả và bảo đảm chặt chẽ yêu cầu về môi trường mới tiếp tục triển khai (công văn số 650/TTg-KTN ngày 29 tháng 4 năm 2009). Bộ Công Thương đã thành lập Hội đồng kiểm tra liên ngành gồm 19 thành viên từ các Bộ, ngành và các nhà khoa học, các chuyên gia hàng đầu. Hội đồng đã đánh giá hiệu quả kinh tế (Báo cáo số 03/BC-BCT ngày 13 tháng 01 năm 2010), đã thẩm định thiết kế kỹ thuật hồ bùn đỏ, cơ bản thống nhất với các giải pháp đã thiết kế (Thông báo số 196/TB-BCT ngày 24 tháng 5 năm 2010).
Như vậy, việc thẩm định các dự án đã được các Hội đồng Thẩm định do Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường thành lập, tiến hành thẩm định nghiêm túc, thận trọng và đã khẳng định các dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo đảm an toàn về môi trường và an ninh, quốc phòng.
Hai dự án này đều do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản là doanh nghiệp Nhà nước làm chủ đầu tư, không liên doanh với nước ngoài. Tập đoàn Nhôm Trung Quốc là đơn vị được thuê làm tổng thầu EPC - xây dựng nhà máy theo hình thức chìa khoá trao tay và sẽ bàn giao nhà máy cho Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam sau 2 năm xây dựng.
Về môi trường, ở những nơi có quặng bô - xít thì lớp đất mặt không thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp và ở đó mật độ rừng che phủ cũng thấp. Việc khai thác bô - xít gắn với hoàn thổ, cải tạo đất trong thời gian khoảng 4 - 5 năm. Như vậy, chính việc khai thác bô - xít sẽ là điều kiện để cải tạo đất tốt hơn cho phát triển cây công nghiệp và trồng rừng ở Tây Nguyên.
Trong quá trình triển khai Dự án, việc xử lý bùn đỏ đã được xem xét, thẩm định, phê duyệt theo đúng quy định. Nhưng ngay sau khi có sự cố vỡ hồ bùn đỏ ở Hungari và sự quan tâm góp ý của một số đại biểu Quốc hội, cán bộ lão thành cách mạng, nhà khoa học,… Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, ngành liên quan, đặc biệt là Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản rà soát lại các hạng mục công trình của Dự án và các giải pháp xây dựng, vận hành hồ bùn đỏ. Yêu cầu Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản thuê tư vấn nước ngoài có kinh nghiệm để thẩm định lại, trên cơ sở đó hoàn thiện thiết kế hồ bùn đỏ của các Dự án; đồng thời, giao Bộ Công Thương tổ chức Đoàn khảo sát sự cố hồ bùn đỏ ở Hungari.
Bộ Công Thương và Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản đã nghiêm túc triển khai thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng; trong đó, đã bổ sung các giải pháp kỹ thuật về thoát nước; đang lựa chọn tổ chức tư vấn độc lập nước ngoài có kinh nghiệm để thẩm định lại thiết kế kỹ thuật hồ bùn đỏ dự án Tân Rai; đã làm việc với tư vấn thiết kế để nghiên cứu thêm phương án thải khô đối với dự án Nhân Cơ; đang xây dựng để ban hành các tiêu chuẩn về bùn đỏ, thiết kế và lập quy trình vận hành hồ bùn đỏ đảm bảo an toàn và bền vững cho dự án.
Bộ Công Thương cũng đã tổ chức Đoàn khảo sát, đánh giá về các vấn đề liên quan đến dự án Tân Rai, Nhân Cơ với sự tham gia của đại diện các cơ quan của Đảng, Quốc hội, các Bộ, ngành liên quan của Chính phủ, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật, các chuyên gia, các nhà khoa học.
Hiện nay Dự án Tân Rai đã hoàn thành nhiều hạng mục, dự kiến tháng 4 năm 2011 sẽ có alumin thương phẩm. Dự án Nhân Cơ đang hoàn tất công tác chuẩn bị đầu tư, dự kiến đầu năm 2011 sẽ khởi công xây dựng và đưa nhà máy vào vận hành cuối năm 2012.
Thưa Quốc hội, 2 Dự án thí điểm Tân Rai và Nhân Cơ đang được triển khai theo đúng chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Việc lập và thẩm định Dự án đã được tiến hành nghiêm túc, thận trọng, có sự tham gia của nhiều nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành. Ngay sau khi có các ý kiến về hiệu quả của Dự án và sự an toàn của hồ bùn đỏ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành chức năng và chủ đầu tư nghiêm túc nghiên cứu rà soát đánh giá lại các vấn đề liên quan. Hội đồng đánh giá liên ngành đã khẳng định hiệu quả kinh tế - xã hội của Dự án.
Riêng về vấn đề an toàn hồ bùn đỏ, Đoàn khảo sát ở Hungari đã có báo cáo đánh giá giải pháp công nghệ và quản lý hồ bùn đỏ Tân Rai là hiện đại, có độ an toàn cao. Tuy vậy, sau khi có kết luận thẩm định lại của tư vấn nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét quyết định và chỉ tiếp tục thực hiện Dự án khi bảo đảm an toàn về môi trường.
III. VỀ TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP TÀU THỦY - VINASHIN
Về vấn đề này, Chính phủ đã có báo cáo bổ sung về thực trạng tình hình Vinashin gửi tới các vị đại biểu Quốc hội. Các Bộ trưởng liên quan đã gửi văn bản trả lời chất vấn của các đại biểu, Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng và một số Bộ trưởng đã giải trình trực tiếp tại hội trường. Tôi xin báo cáo thêm một số nội dung sau:
Năm 1993, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết về phát triển kinh tế biển, chủ trương phát triển đồng bộ về cảng, đội tàu, dịch vụ hàng hải, đầu tư chiều sâu để nâng cao năng lực sửa chữa và đóng tàu. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo việc sắp xếp lại ngành đóng và sửa chữa phương tiện thủy để xây dựng và phát triển công nghiệp đóng tàu thành một ngành công nghiệp mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Năm 1996 đã quyết định thành lập Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin - Tổng Công ty 91) trên cơ sở tổ chức lại các cơ sở nghiên cứu, các doanh nghiệp chuyên ngành thuộc Bộ Giao thông vận tải và một số địa phương với vốn điều lệ 100 tỷ đồng từ 23 đơn vị thành viên, 7.000 lao động, chỉ đóng được tàu có trọng tải dưới 3.000 tấn.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 Khoá IX của Đảng về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước và Chiến lược phát triển ngành Cơ khí, tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án thí điểm và quyết định thành lập Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam trên cơ sở Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy, kinh doanh đa ngành, trong đó ngành công nghiệp đóng mới, sửa chữa tàu thuỷ và vận tải biển là ngành kinh doanh chính, làm nòng cốt để phát triển ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam.
Giai đoạn 1996 - 2008, tốc độ tăng trưởng bình quân của Vinashin hàng năm đạt 35 - 40%, kinh doanh đều có lãi (theo kết quả kiểm toán độc lập, lợi nhuận trước thuế năm 2005 là 126,5 tỷ đồng, năm 2006 là 503,3 tỷ đồng, năm 2007 là 858,8 tỷ đồng, năm 2008 là 645,1 tỷ đồng); đến hết năm 2009 đã đóng góp vào ngân sách nhà nước trên 3.300 tỷ đồng. Tập đoàn đã có bước phát triển đáng kể về năng lực đóng và sửa chữa tàu biển; đến năm 2008, có đội ngũ lao động gần 70 nghìn người, trong đó, trình độ đại học và trên đại học hơn 12 nghìn, công nhân kỹ thuật trên 55 nghìn. Tính đến đầu năm 2009, Tập đoàn đã có số đơn đặt hàng đóng tàu với tổng giá trị gần 12 tỷ USD. Đã hoàn thành đóng và bàn giao được 279 tàu trị giá trên 1,8 tỷ USD, bao gồm: 59 tàu trọng tải 6.500 và 15.000 tấn, 9 tàu 22.500 và 34.000 tấn, 9 tàu 53.000 tấn, 6 tàu container, 1 tàu chở ô tô 4.900 xe, 1 kho nổi chứa xuất dầu thô 150.000 tấn với trang thiết bị hiện đại và nhiều loại tàu khác. Trong số tàu trên, đã xuất khẩu 155 tàu, trị giá trên 1,1 tỷ USD.
Từ cuối năm 2008, Vinashin gặp nhiều khó khăn, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, không thu xếp được vốn để thực hiện các hợp đồng đã ký.Tập đoàn lâm vào tình trạng thua lỗ (năm 2009 lỗ 1.600 tỷ đồng). Thực trạng này có nguyên nhân khách quando ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhiều chủ tàu đã hủy hợp đồng (từ đơn hàng có giá trị gần 12 tỷ USD xuống chỉ còn trên 2 tỷ); song nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu,trước hết là do việc cố ý làm trái, báo cáo không trung thực và yếu kém của lãnh đạo Tập đoàn trong quản trị doanh nghiệp, quản lý tài chính và đầu tư, phát triển thêm quá nhiều doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh… Trong khi đó, một số cơ quan chức năng thuộc Chính phủ chưa thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với Tập đoàn.
Khi được các cơ quan chức năng báo cáo tình hình quản lý yếu kém và sai trái của lãnh đạo Tập đoàn Vinashin, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ chức năng, Bộ quản lý ngành liên tục theo sát để tháo gỡ khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh và yêu cầu cắt giảm từ 106 dự án với tổng mức đầu tư gần 64 nghìn tỷ đồng xuống còn 28 dự án với tổng mức đầu tư gần 25 nghìn tỷ đồng. Riêng giai đoạn 2010 - 2011, chỉ thực hiện 13 dự án đang đầu tư dở dang với tổng mức đầu tư gần 2nghìn tỷ đồng. Tháng 7 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Tổ công tác liên ngành để nghiên cứu đề xuất phương án tái cơ cấu Tập đoàn; đồng thời, đã yêu cầu Tập đoàn nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, lãnh đạo các đơn vị thành viên và yêu cầu các cơ quan chức năng tiến hành thanh tra, điều tra xử lý nghiêm các sai phạm theo pháp luật.
Theo báo cáo của Tổ công tác và Hội đồng quản trị tập đoàn Vinashin, đến ngày 30 tháng 6 năm 2010, tổng số nợ của Tập đoàn là hơn 86 nghìn tỷ đồng, trong đó nợ đến hạn phải trả trên 14 nghìn tỷ đồng, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu bằng gần 11 lần. Tập đoàn rơi vào tình trạng mất cân đối tài chính nghiêm trọng, sản xuất đình đốn, nợ lương, nợ bảo hiểm đối với người lao động, công nhân chuyển việc, bỏ việc gần 17.000 người, mất việc gần 5.000 người.
Số nợ vay 86 nghìn tỷ đồng và số vốn chủ sở hữu hơn 8.000 tỷ đồng đang nằm trong tổng giá trị tài sản của Tập đoàn trên sổ sách là hơn 104 nghìn tỷ đồng. Giá trị thực tế của mỗi tài sản cũng có thể cao hơn, bằng hoặc thấp hơn trên sổ sách, hiện đang được rà soát đánh giá cụ thể. Các tài sản này đang được quản lý ở các đơn vị và doanh nghiệp thuộc Tập đoàn, trong đó có 110 cơ sở sản xuất, với 28 nhà máy đóng tàu đang hoạt động có cơ sở vật chất kỹ thuật khá tốt, 14 nhà máy đóng tàu đang thực hiện đầu tư; các cơ sở sản xuất công nghiệp phụ trợ; các dự án khu công nghiệp, cảng biển và đội tàu vận tải biển 700 nghìn tấn trọng tải… Như vậy, con số 86 nghìn tỷ nợ vay của Tập đoàn không phải là số tiền mà Vinashin đã thua lỗ, thất thoát.
Hiện nay, Thanh tra Chính phủ đang hoàn chỉnh kết luận thanh tra toàn diện Tập đoàn Vinashin, kiểm toán độc lập đang kiểm toán kết quả kinh doanh năm 2010 và lãnh đạo Tập đoàn cũng đang rà soát đánh giá lại cụ thể để có con số cập nhật chính xác về tình hình tài chính, tài sản của Tập đoàn.
Chính phủ đã nghiêm túc kiểm điểm và thảo luận phân tích tình hình các mặt, xác định nguyên nhân, trách nhiệm và đề ra kế hoạch cụ thể với hai yêu cầu là: (1) Chấn chỉnh và xử lý khó khăn, tạo điều kiện để tập đoàn Vinashin sớm ổn định, phục hồi sản xuất kinh doanh, từng bước giảm lỗ, có lãi, trả được nợ, tích luỹ và phát triển; (2) Tập trung hoàn thiện thể chế cơ chế, nâng cao trách nhiệm, hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, không để xảy ra tình trạng như Vinashin.
Bộ Chính trị đã nghe Chính phủ báo cáo và đã có kết luận chỉ đạo toàn diện về việc kiện toàn và xây dựng, phát triển Tập đoàn Vinashin. Kết luận này của Bộ Chính trị đã được gửi đến các vị đại biểu Quốc hội.
Thực hiện nghiêm túc kết luận của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đã có các Chỉ thị số 1479 ngày 16 tháng 8 năm 2010, số 1568 ngày 19 tháng 8 năm 2010 và đã thành lập Ban Chỉ đạo tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy do Phó Thủ tướng thường trực làm Trưởng ban; đã tăng cường Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc, kiện toàn một bước tổ chức và quy chế hoạt động của Tập đoàn.
Ngày 18 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Vinashin với mục tiêu là sớm ổn định sản xuất kinh doanh, củng cố uy tín, thương hiệu, giảm lỗ, có lãi, từng bước trả được nợ, tích lũy và phát triển; xây dựng Tập đoàn làm nòng cốt của ngành công nghiệp tàu biển, là ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế hàng hải và thực hiện Chiến lược Biển. Theo đó, đến 2013, Tập đoàn Vinashin sau khi hoàn thành Đề án tái cơ cấu sẽ còn 43 đơn vị và doanh nghiệp hoạt động chuyên môn hoá, tập trung vào 3 lĩnh vực chính là đóng và sửa chữa tàu biển, công nghiệp hỗ trợ và đào tạo công nhân kỹ thuật chuyên ngành.
Đối với các đơn vị không tiếp tục nằm trong cơ cấu của Tập đoàn với tổng tài sản hơn 27 nghìn tỷ đồng, nợ phải trả trên 23 nghìn tỷ đồng, số lao động khoảng 13 nghìn người sẽ được sắp xếp lại phù hợp, đúng pháp luật, theo các hình thức: cổ phần hoá, bán doanh nghiệp, bán nợ, chuyển nợ thành vốn góp, chuyển nhượng phần vốn góp, giải thể, phá sản...; bảo đảm các yêu cầu về quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp của nhà đầu tư, người lao động; thu hồi tối đa các khoản vốn đã đầu tư, trả được nợ; tập trung vào thực hiện nhiệm vụ chính của Tập đoàn.
Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, cơ quan chức năng tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với Tập đoàn Vinashin, tập trung chỉ đạo, hỗ trợ đểTập đoàn thực hiện có kết quả Đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt.
Tuy khó khăn còn rất lớn nhưng việc triển khai các giải pháp tái cơ cấu Tập đoàn Vinashin đã có kết quả bước đầu tích cực. Đã chấn chỉnh, kiện toàn một bước về tư tưởng, tổ chức, đội ngũ cán bộ và quy chế quản lý nội bộ của Tập đoàn. Đến nay, về cơ bản, sản xuất kinh doanh được duy trì và có bước phục hồi. Từ đầu năm đến ngày 18 tháng 11 năm 2010 Tập đoàn đã giao được 36 tàu với giá trị hợp đồng trên 280 triệu USD, trong đó có 21 tàu xuất khẩu. Từ nay đến cuối năm sẽ giao thêm 21 tàu với tổng giá trị gần 293 triệu USD, trong đó có 7 tàu xuất khẩu. Tập đoàn đang phấn đấu giao thêm 9 tàu nữa, nâng tổng số tàu dự kiến giao trong năm lên 66 tàu với tổng giá trị gần 600 triệu USD. Các doanh nghiệp thành viên của Tập đoàn cũng đang tích cực hoàn thành các con tàu đang đóng và tìm thêm các hợp đồng mới để khai thác tối đa cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có. Đã có một số khách hàng trong và ngoài nước ký thêm các hợp đồng đóng mới với Tập đoàn. Năm 2010 doanh thu của Tập đoàn dự kiến sẽ đạt 14 - 15 nghìn tỷ đồng và lỗ kinh doanh sẽ ít hơn năm 2009.
30 doanh nghiệp và 5 dự án được chuyển giao sang Tập đoàn Dầu khí và Tổng công ty Hàng hải đều phù hợp với ngành nghề chính và cũng là thế mạnh của hai doanh nghiệp này. Đến nay, hầu hết đã phục hồi sản xuất, hoạt động trở lại, bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động, có triển vọng phát triển, trả được nợ và có lãi. Tàu Hoa Sen chuyển giao cho Tổng công ty Hàng hải cũng đã có phương án khai thác.
Trong thời gian qua, các Bộ, ngành, địa phương, các ngân hàng và các đối tác làm ăn với Vinashin cả trong và ngoài nước đã tích cực hợp tác, hỗ trợ, tạo điều kiện để Vinashin bước đầu phục hồi sản xuất, bán được hàng và có trả nợ. Nợ lương và bảo hiểm xã hội từng bước được giải quyết và dự kiến sẽ giải quyết xong trong năm 2010. Người lao động cơ bản đã yên tâm làm việc. Lãnh đạo mới của Tập đoàn đang khẩn trương xây dựng phương án sản xuất kinh doanh với quyết tâm rất cao là sớm thực hiện thành công Đề án tái cơ cấu Tập đoàn.
Để tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước, trong các báo cáo trình Quốc hội, Chính phủ đã trình bày những phương hướng nhiệm vụ chủ yếu. Tôi xin báo cáo thêm như sau:
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế cơ chế quản lý về đầu tư, sử dụng vốn và tài sản nhà nước; về giám sát, kiểm tra, thanh tra; về tổ chức thực hiện chức năng của chủ sở hữu đối với tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước để vừa nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý của chủ sở hữu, vừa tạo điều kiện để các doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động sáng tạo trong quản lý sản xuất kinh doanh theo pháp luật. Không quay lại cơ chế cơ quan hành chính nhà nước can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ sẽ sớm trình Quốc hội ban hành Luật về sử dụng vốn và tài sản nhà nước đầu tư vào kinh doanh.
- Căn cứ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xác định rõ những lĩnh vực cần tổ chức tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Tổng kết việc thí điểm mô hình tổ chức các tập đoàn kinh tế. Tập trung sức xây dựng các tập đoàn và tổng công ty nhà nước đủ mạnh, thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng, có hiệu quả cao, góp phần thực hiện tốt vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng hệ thống tiêu chí để đánh giá hiệu quả cho từng tập đoàn kinh tế và từng tổng công ty nhà nước; hoàn thiện cơ chế đánh giá cán bộ quản lý doanh nghiệp; quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng thành viên, Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc gắn với việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Trên cơ sở kết quả kiểm toán, thực hiện công khai minh bạch kết quả hoạt động của tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát, kiểm tra.
Thưa Quốc hội, những việc làm sai trái của lãnh đạo Tập đoàn Vinashin đã gây hậu quả nghiêm trọng. Những người trực tiếp quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn vi phạm pháp luật đang được các cơ quan chức năng điều tra, làm rõ và sẽ xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Thực trạng này có trách nhiệm của Chính phủ, của các thành viên Chính phủ có liên quan trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu, nhất là chưa tập trung hoàn thiện được đầy đủ, chặt chẽ hệ thống cơ chế chính sáchtrong quản lý đầu tư, sử dụng vốn, lập mới doanh nghiệp, mở thêm ngành nghề kinh doanh và trong giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước. Mặt khác, việc thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao, việc tiến hành và xử lý sau giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan chức năng thuộc Chính phủ còn kém hiệu lực hiệu quả nên chưa phát hiện được đầy đủ và ngăn chặn kịp thời những việc làm sai trái và báo cáo không trung thực của lãnh đạo Tập đoàn Vinashin.
Là người đứng đầu Chính phủ, tôi xin nhận trách nhiệm về những hạn chế yếu kém nêu trên của Chính phủ. Thủ tướng, Phó Thủ tướng và những thành viên Chính phủ có liên quan đang tiến hành kiểm điểm để làm rõ trách nhiệm.
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình là phải thực hiện tốt nhất chức trách nhiệm vụ được giao, tập trung sức thực hiện có kết quả Kết luận chỉ đạo của Bộ Chính trị và thực hiện thành công Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Vinashin, không để xảy ra vụ việc tương tự Vinashin.
Việc thực hiện thành công Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Vinashin còn rất khó khăn. Chính phủ rất mong được các vị đại biểu Quốc hội chia sẻ, ủng hộ và giám sát.
IV. VỀ BẢO ĐẢM CUNG ỨNG ĐIỆN CHO SẢN XUẤT VÀ ĐỜI SỐNG CỦA NHÂN DÂN
Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm phát triển ngành điện. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Điện giai đoạn 2004 - 2010, định hướng đến năm 2020; Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2050. Chính phủ đã khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Điện lực; đã phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia theo các giai đoạn, gần đây nhất là Quy hoạch điện VI và đang tổ chức xây dựng Quy hoạch điện VII. Trong chỉ đạo điều hành, đã ban hành nhiều quy định nhằm rút gọn thủ tục đầu tư, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình điện. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước do một Phó Thủ tướng làm Trưởng ban để tổ chức thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực, chỉ đạo kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển nguồn điện. Chính phủ cũng đã phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành và phát triển thị trường điện Việt Nam.
Với sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, sự nỗ lực của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực điện lực, ngành điện đã có những bước phát triển mạnh. Trong 5 năm qua, công suất và sản lượng điện toàn quốc tăng gấp 2 lần; đến cuối năm 2010, tổng công suất nguồn điện đạt gần 21 nghìn MW, sản lượng điện sản xuất đạt trên 97 tỷ kWh; điện thương phẩm đạt trên 85 tỷ kWh, tốc độ tăng nhu cầu điện bình quân giai đoạn 2006 - 2010 đạt gần 14%, gấp khoảng 2 lần so với tăng trưởng GDP. Đến nay đã có gần 98% số xã và 95,4% số hộ dân nông thôn được sử dụng điện lưới quốc gia, vượt 5,4% so với chỉ tiêu Đại hội X của Đảng đã đề ra, cao hơn nhiều nước trong khu vực có thu nhập bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2010, tình trạng thiếu điện đã xảy ra vào những ngày nắng nóng và diễn ra trên diện rộng, làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Tình trạng thiếu điện có nhiều nguyên nhân.
Trước hết là phần lớn các dự án điện đều thiếu vốn. Trong nhiều năm qua Chính phủ chỉ dành vốn ngân sách phục vụ cấp điện cho các thôn buôn vùng đồng bào dân tộc. Với khoảng 40 dự án đầu tư xây dựng nguồn điện và hàng chục dự án đầu tư xây dựng lưới truyền tải để đáp ứng nhu cầu hàng năm phải bổ sung thêm khoảng 3.000 MW, tương đương nhu cầu vốn khoảng 6 tỷ USD/năm, Chính phủ cùng ngành điện đã rất nỗ lực trong việc huy động vốn đầu tư cho phát triển điện nhưng đã gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới (1).
Hai là, công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, tái định cư tại các công trình nguồn và lưới điện gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa của các Bộ, ngành và các địa phương, sự chia sẻ và hợp tác của người dân.
Ba là, giá điện thấp chưa phản ánh đầy đủ các chi phí sản xuất và kinh doanh điện là nguyên nhân chủ yếu gây khó khăn cho việc huy động vốn đầu tư vào ngành điện và không khuyến khích việc sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả (2).
Bốn là, năng lực của nhiều chủ đầu tư và nhà thầu yếu kém, kể cả một số nhà thầu nước ngoài trong công tác chuẩn bị đầu tư và thi công các công trình.
Năm là, ý thức tiết kiệm và sử dụng điện hiệu quả còn thấp cũng làm tăng nhu cầu và gây sức ép lớn cho việc đầu tư phát triển ngành điện.
Sáu là, những năm gần đây do bị thiếu nước nên sản lượng điện sản xuất của các nhà máy thuỷ điện bị sụt giảm nghiêm trọng trong khi các nhà máy nhiệt điện than mới đưa vào vận hành lại chưa ổn định, quá trình xử lý sự cố bị kéo dài (nhiệt điện Hải Phòng, Cẩm Phả, Sơn Động, Quảng Ninh). Mặc dù ngành điện đã huy động các nhà máy điện chạy dầu phát điện bổ sung và tăng lượng điện mua của nước ngoài nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu. Tuy tỷ lệ thiếu hụt không lớn (khoảng 5 - 6% tổng nhu cầu), nhưng do công tác điều hành, tiết giảm điện chưa hợp lý, gây bức xúc trong nhân dân.
Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan thực hiện các biện pháp để khắc phục tình trạng thiếu điện năm 2011 và các năm tới như sau:
- Khai thác tối đa các nguồn phát điện hiện có, kể cả các nhà máy điện sử dụng dầu đốt có giá thành sản xuất cao; nguồn điện Diesel dự phòng của các doanh nghiệp. Rút ngắn thời gian sửa chữa, bố trí hợp lý lịch sửa chữa các tổ máy hiện có để tăng sản lượng điện. Tiếp tục nhập khẩu tối đa lượng điện từ nước ngoài.
- Đưa vào vận hành ổn định các dự án nguồn điện, nhất là các dự án nhiệt điện than mới ở miền Bắc; tập trung tháo gỡ các vướng mắc về nguồn vốn, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm đưa các nguồn điện mới vào vận hành. Tổ máy 1 của thủy điện Sơn La với công suất 400 MW sẽ đưa vào vận hành giữa tháng 12 năm 2010, sớm 2 năm so với thời hạn đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội. Từ nay đến hết năm 2011, đưa vào vận hành khoảng 5.000 MW, tăng trên 20% công suất nguồn so với hiện nay.
- Ưu tiên tích nước cho các hồ chứa thuỷ điện để đảm bảo đến cuối năm 2010 đạt mức nước dâng cao nhất có thể được nhằm huy động tối đa công suất cho giai đoạn mùa khô năm 2011.
- Tăng cường công tác tuyên truyền sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả trong sản xuất và tiêu dùng. Trường hợp xảy ra thiếu điện phải thực hiện các giải pháp tiết giảm hợp lý.
Đồng thời, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau:
- Ban hành Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2015 - 2020 có tính đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII) vào cuối năm 2011.
- Thực hiện cơ cấu lại ngành điện, sớm đưa thị trường phát điện cạnh tranh vào hoạt động; thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế cả trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển nguồn điện, tăng nhanh tỷ trọng đầu tư ngoài Nhà nước.
- Thực hiện lộ trình từng bước giá bán điện theo cơ chế thị trường nhằm bảo đảm cho các nhà đầu tư thu hồi vốn và có tích lũy hợp lý để tái sản xuất mở rộng, đồng thời với việc hỗ trợ phù hợp cho các hộ nghèo; khuyến khích tiết kiệm điện trong sản xuất và tiêu dùng, ưu tiên phát triển các ngành tiêu thụ ít năng lượng, sử dụng năng lượng mới và tái tạo.
- Nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi Luật Điện lực cho phù hợp với cơ chế thị trường.
V. KHẮC PHỤC HẬU QUẢ THIÊN TAI TẠI CÁC TỈNH MIỀN TRUNG VÀ MỘT SỐ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU VỀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, NƯỚC BIỂN DÂNG
Công tác phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn đặc biệt quan tâm. Những năm gần đây đã chủ động thực hiện nhiều giải pháp có hiệu quả và đã giảm thiểu được thiệt hại. Tuy nhiên, các đợt mưa lớn liên tiếp xảy ra trên diện rộng vừa qua đã làm cho lũ trên nhiều sông ở miền Trung vượt đỉnh lũ lịch sử, làm thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, gây nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống. Tính đến ngày 22 tháng 11 năm 2010, đã có 198 người chết, 35 người mất tích, 197 người bị thương; ước tính thiệt hại về vật chất trên 13.544 tỷ đồng.
Ngay trong và sau mưa lũ xảy ra, cùng với cấp uỷ Đảng, chính quyền và quân dân các địa phương, nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã trực tiếp đến các địa phương bị thiệt hại nặng, thăm hỏi, động viên, chỉ đạo công tác khắc phục hậu quả, ổn định đời sống của nhân dân. Thủ tướng Chính phủ đã quyết định hỗ trợ khẩn cấp 770 tỷ đồng và 17.500 tấn gạo để các địa phương cứu đói, hỗ trợ dân sinh, khôi phục cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục hồi sản xuất. Thủ tướng cũng chỉ đạo các Bộ, ngành theo chức năng và nhiệm vụ được giao trực tiếp đi kiểm tra, đánh giá thiệt hại, giúp các địa phương sớm ổn định đời sống nhân dân, không để người dân nào bị đói, nhanh chóng khôi phục lại các cơ sở hạ tầng thiết yếu, đảm bảo vệ sinh môi trường sau lũ, phòng chống dịch bệnh, phục hồi sản xuất. Đồng bào ta ở cả trong và ngoài nước đã hướng về miền Trung để chia sẻ những khó khăn, mất mát và có những hỗ trợ thiết thực.
Về lâu dài, để ứng phó có hiệu quả với thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu, hạn chế thấp nhất thiệt hại, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương làm tốt các việc sau:
- Ưu tiên vốn thực hiện chương trình củng cố, nâng cấp đảm bảo an toàn hồ chứa nước, nhất là trên địa bàn các tỉnh miền Trung. Nâng cao chất lượng dự báo và khả năng phòng chống thiên tai; bổ sung các trạm đo thu thập số liệu khí tượng thuỷ văn; nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác dự báo bão lũ, các cán bộ chuyên ngành thuỷ lợi ở cấp huyện.
- Tiếp tục ban hành và hoàn thiện các quy trình vận hành liên hồ chứa theo Danh mục đã được Thủ tướng phê duyệt để điều tiết dòng chảy, trữ nước mùa mưa, cấp nước mùa khô và tham gia cắt giảm lũ cho hạ du, trước hết là các hồ chứa ở khu vực miền Trung và các nơi có yêu cầu cấp bách.
- Bổ sung các trang thiết bị tìm kiếm cứu nạn phù hợp với đặc thù địa phương để tăng cường khả năng ứng cứu tại chỗ. Có cơ chế hỗ trợ địa phương vùng thường xuyên bị bão lụt xây dựng các công trình công cộng, từng bước tiến tới hỗ trợ mỗi gia đình xây được một gian nhà cao tầng kiên cố kết hợp làm nơi tránh trú khi lũ bão xảy ra.
- Tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng và các công trình thoát lũ; chỉnh trị, nạo vét các cửa sông, mở rộng khẩu độ các công trình thoát lũ trên hệ thống đường bộ, đường sắt.
- Các Bộ, ngành, địa phương chủ động thực hiện Chiến lược Quốc gia và Kế hoạch hành động phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đã được phê duyệt. Phải kiểm tra, rà soát lại, điều chỉnh quy hoạch sản xuất, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng phù hợp với yêu cầu ứng phó thiên tai, biến đổi khí hậu; quy hoạch sắp xếp lại dân cư, tổ chức di dời dân ở những khu vực nguy hiểm, thường xuyên bị ngập sâu, có nguy cơ sạt lở đất, lũ quét... đến nơi ở mới an toàn.
Thực tế những năm qua cho thấy yêu cầu ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, chống ngập úng ngày càng trở lên cấp bách. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu và thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu.Các Bộ, ngành và địa phương đã và đang xây dựng kế hoạch hành động của mình, tiến tới xây dựng kế hoạch hành động Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thủ tướng Chính phủ đã ký hợp tác với Chính phủ Hà Lan về việc giúp Việt Nam rà soát, xây dựng quy hoạch các công trình thuỷ lợi phục vụ ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng; đồng thời, đã phê duyệt và đang triển khai các dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống đê biển, chương trình đầu tư nâng cấp hệ thống đê sông. Bộ Xây dựng đang nghiên cứu để trình Thủ tướng Chính phủ phê quyệt Đề án rà soát, điều chỉnh quy hoạch, ban hành tiêu chuẩn xây dựng cho các thành phố, khu công nghiệp và khu kinh tế thuộc vùng ven biển để ứng phó hiệu quả với tình trạng nước biển dâng.
Theo nhiều dự báo, nước ta sẽ bị ảnh hưởng nặng nề do biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng. Vì vậy, phải đặc biệt quan tâm chỉ đạo, tập trung huy động mọi nguồn lực để đầu tư thích đáng cho nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này.
VI. VỀ ĐẦU TƯ CHO NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT CỦA TRUNG ƯƠNG VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN VÀ NÔNG THÔN
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vị trí rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của đất nước, luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Tôi xin báo cáo, giải trình thêm một số nội dung sau đây:
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 28 tháng 10 năm 2008 Chính phủ đã ra Nghị quyết ban hành Chương trình hành động, giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương xây dựng và triển khai nhiều chương trình, đề án. Đến nay, 8/9 đề án quy hoạch, 3/3 chương trình mục tiêu quốc gia và 21/27 đề án chuyên ngành đã được thông qua, từ nay đến cuối năm sẽ hoàn thành thêm 3 đề án. Các địa phương cũng đã tích cực xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 trên địa bàn, kết hợp với việc triển khai các chương trình, đề án khác đã được phê duyệt. Việc triển khai tích cực, đồng bộ đã đạt được những kết quả bước đầu, được nhân dân đồng tình hưởng ứng.
Về đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, Nghị quyết Trung ương 7 xác định: "tăng đầu tư phát triển cho khu vực nông nghiệp, nông thôn (3); tăng mạnh đầu tư ngân sách nhà nước ngay từ năm 2009 và đảm bảo 5 năm sau cao gấp 2 lần 5 năm trước". Theo tinh thần đó, Nhà nước chủ trương dành vốn ngân sách tập trung đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp, thủy lợi, khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ xây dựng nông thôn mới và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; đồng thời, tăng thêm chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình trọng điểm, dự án đầu tư có mục tiêu cho nông nghiệp, nông thôn, ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn (4).
Tính trong 5 năm 2004 - 2008, trước khi có Nghị quyết Trung ương 7, tổng vốn đầu tư bố trí cho lĩnh vực này là hơn 181 nghìn tỷ đồng, bằng 39,1% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ của cả nước; trong đó, đầu tư cho phát triển nông nghiệp là 36,9%, cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn là 63,1%.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn đã được quan tâm nhiều hơn:
Năm 2009, tổng vốn đầu tư bố trí cho lĩnh vực này gần 80 nghìn tỷ đồng, bằng 46,8% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, tăng 43,2% so với năm 2008; trong đó, đầu tư cho phát triển nông nghiệp tăng 64,5%, cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn tăng 33%.
Năm 2010, tổng vốn đầu tư bố trí cho lĩnh vực này hơn 87 nghìn tỷ đồng, bằng 48,1% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, tăng 10,5% so với năm 2009; trong đó, đầu tư cho phát triển nông nghiệp tăng 9,1%, cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn tăng 11,3%.
Trong dự toán năm 2011, tổng vốn đầu tư dự kiến bố trí cho lĩnh vực này là 98,5 nghìn tỷ đồng, bằng 50% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, tăng 12,9% so với kế hoạch năm 2010; trong đó, đầu tư cho phát triển nông nghiệp tăng 7,3%, cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn tăng 11,6%.
Ngoài nguồn vốn trên, hàng năm Nhà nước còn dành một phần vốn dự phòng ngân sách trung ương phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn (mỗi năm từ 7 đến 8 nghìn tỷ đồng, chủ yếu hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai, lụt bão, dịch bệnh…) và thực hiện miễn giảm thuế, phí, bù lãi suất tín dụng ưu đãi...
Như vậy, sau khi có Nghị quyết Trung ương 7, mặc dù kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn nhưng đầu tư của Nhà nước cho khu vực nông nghiệp, nông thôn hàng năm vẫn tăng cao hơn mức tăng bình quân chung. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn so với tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ tăng từ 43,3% năm 2008 lên 46,8% năm 2009, 48,1% năm 2010 và 50% năm 2011. Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, tổng vốn ngân sách và trái phiếu Chính phủ đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn đã tăng, gấp 1,46 lần so với giai đoạn 2004 - 2008, trước khi có Nghị quyết Trung ương 7. Nếu năm 2012 và 2013, Quốc hội phê duyệt mức đầu tư bằng hoặc cao hơn năm 2011 thì sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (2009 - 2013) sẽ đạt và vượt mục tiêu đề ra là đảm bảo vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn 5 năm sau cao gấp hai lần 5 năm trước.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Nhiệm vụ đặt ra cho năm 2011 rất nặng nề. Tiếp thu những ý kiến đóng góp thiết thực của các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ sẽ khẩn trương xây dựng chương trình hành động và nỗ lực thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội. Đồng thời, sẽ tiếp tục rà soát, đánh giá kết quả thực hiện để xây dựng và hoàn thiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển ngành, vùng, lĩnh vực theo yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; khẩn trương xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 - 2015 để trình Quốc hội thông qua gắn với việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI.
Chính phủ xin trân trọng đề nghị Quốc hội tăng cường giám sát và trên cương vị công tác của mình, mỗi vị đại biểu Quốc hội có những đóng góp tích cực cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ mà Quốc hội đã đề ra cho năm 2011.
(1) Hiện nay vốn đầu tư cho phát triển điện của Việt Nam bằng khoảng 15% tổng đầu tư toàn xã hội, trong khi tại nhiều quốc gia đang phát triển, tỷ lệ này lớn nhất cũng chỉ bằng khoảng 10% GDP. Trong 5 năm từ 2006 đến 2010, tổng vốn đầu tư của riêng EVN là trên 209 nghìn tỷ đồng.
(2) Theo số liệu thống kê năm 2007 của IMF và WB thì giá điện trung bình của Việt Nam tương đương 5,2 cent USD/kWh. Giá tại Malaysia là 7,67 cent, Thái Lan là 8,5 cent, Hàn Quốc là 9,07 cent, Singapore là 13 cent, Philipines là 17,5 cent, Nhật Bản là 18,15 cent...
(3)Vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bao gồm: (1) Vốn đầu tư phát triển sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp: vốn tập trung đầu tư trực tiếp cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp, thuỷ lợi; các chương trình hỗ trợ có mục tiêu; (2) Vốn đầu tư phát triển nông thôn, bao gồm vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia, vốn từ các khoản hỗ trợ có mục tiêu của ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương và vốn ngân sách tập trung đầu tư cho ngành giao thông do địa phương quản lý.
(4) Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2010 về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.