Thiếu tiêu chí rõ ràng
Kinh tế - Ngày đăng : 06:59, 07/10/2010
Sản xuất tại Công ty Khí cụ điện I, Sơn Tây. Ảnh: Bá Hoạt |
Qua tổng hợp số liệu báo cáo của các DN, chỉ có 17 DN mỗi năm đưa được từ 1.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài; 29 DN đưa từ 500 đến dưới 1.000 lao động; 50 DN đưa từ 300 đến dưới 500 lao động và 52 DN đưa được dưới 100 lao động.
Báo cáo kết quả giám sát cũng cho thấy, quy mô hoạt động của DN trong lĩnh vực này là nhỏ, tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động XKLĐ. Trình độ của đội ngũ cán bộ hạn chế, nhất là các DN hoạt động đa ngành. Hợp đồng cung ứng lao động có ý nghĩa quyết định nhưng chủ yếu qua môi giới, DN không có điều kiện, không chịu khó đầu tư tìm hiểu đầy đủ về đơn vị tiếp nhận lao động nên chất lượng hợp đồng chưa bảo đảm. Trong khi đó, DN vẫn "cố tình" vi phạm việc đăng ký hợp đồng cung ứng lao động dưới nhiều hình thức như, không đăng ký hợp đồng đưa lao động đi nhiều hơn số lượng hợp đồng đăng ký chưa có chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước vẫn thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng cung ứng lao động còn chưa theo đúng quy định của pháp luật, thiếu rõ ràng về nội dung, nhất là các điều khoản liên quan đến quyền lợi của NLĐ. Theo đánh giá của Bộ LĐ-TB&XH, trong tổng số 167 DN dịch vụ, có khoảng 30% hoạt động có hiệu quả cao, 50% hiệu quả trung bình và 20% còn lại hoạt động kém hiệu quả. Trong 167 DN với gần 300 ngàn lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài tại khoảng 40 thị trường chỉ có 22 văn phòng đại diện của DN ở nước ngoài.
Nhằm bảo đảm tính khả thi của văn bản pháp luật, hỗ trợ tối đa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, nhất là đối với lao động hộ nghèo, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã yêu cầu Bộ LĐ-TB&XH cũng như các đơn vị liên quan đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Bên cạnh đó cũng cần bảo đảm tính chính xác, khách quan giúp NLĐ và gia đình của họ nắm được chủ trương, chính sách, chế độ, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ.
UB Thường vụ Quốc hội cho rằng các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện đồng bộ và có hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Đặc biệt là công tác cấp giấy phép và quản lý đối với các DN hoạt động dịch vụ XKLĐ. Cơ quan quản lý cần thẩm định các hợp đồng cung ứng lao động bảo đảm chất lượng; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, kiên quyết thu hồi giấy phép và công khai kịp thời về các DN bị thu hồi giấy phép. Bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu mô hình, sắp xếp DN theo hướng tăng cường năng lực, hình thành những DN mạnh hoạt động trong lĩnh vực này. Từ những mô hình này, cơ quan quản lý nhà nước sẽ phải xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả của các DN hoạt động dịch vụ, hướng tới định kỳ đánh giá, công bố chất lượng hoạt động của các DN.