Tao nhã địa lan

Xã hội - Ngày đăng : 14:43, 28/10/2003

Loài người cũng đã yêu thích và trồng hoa lan từ ngàn xưa. Những cuốn sách cổ nhất đã viết về hoa lan là của Trung Quốc. Đó là các cuốn Thi kinh của Trịnh Phong ra đời vào thế kỷ thứ V trước CN, có phần liên quan đến Khổng Tử (551 - 497 trước CN) và cuốn Trường ca Ly Tao (Nỗi buồn xa cách) nổi tiếng của nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 trước CN). Trong  Thi Kinh có câu:...

Ảnh: Trần Ngọc 

Loài người cũng đã yêu thích và trồng hoa lan từ ngàn xưa. Những cuốn sách cổ nhất đã viết về hoa lan là của Trung Quốc. Đó là các cuốn Thi kinh của Trịnh Phong ra đời vào thế kỷ thứ V trước CN, có phần liên quan đến Khổng Tử (551 - 497 trước CN) và cuốn Trường ca Ly Tao (Nỗi buồn xa cách) nổi tiếng của nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 trước CN). Trong Thi Kinh có câu:

Tần dữ Vĩ, phương hoán hoán hề

Sĩ dữ nữ, phương bỉnh lan hề

Tạm dịch:

Sông Tần, sông Vĩ đang chảy cuồn cuộn

Chàng và nàng, đang cầm hoa lan.

Trong Ly Tao:

Dư ký tư lan chi cửu uyến

Hựu thụ huệ chi bách mẫu

Dịch:

Đất trồng lan có chín uyển

Đất trồng huệ có trăm mẫu

(Uyểnmẫu là các đơn vị diện tích của nước Trung Hoa cổ đại).

Vậy có thể nói: Hoa lan đã được con người chơi và trồng từ 2.500 năm trước.

Việc chơi lan từ cổ xưa đã được coi là một thú chơi tao nhã. Nó được các đấng vương tôn, các nhà học giả, sĩ phu, nho giáo yêu thích ca ngợi, thậm chí còn được coi là một biểu tượng của lẽ sống. Lan được xếp vào hàng tứ quý và là nữ hoàng của các loài hoa.

Do yếu tố lịch sử, các triều đại phong kiến của nước ta đại đa số đóng đô trên đất Thăng Long, qua quá trình bang giao, nhất là về lĩnh vực văn hoá, nên việc chơi lan của Việt Nam chúng ta ít nhiều có chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Một số giống lan khai thác nguyên sinh ở Việt Nam, một số du nhập từ Trung Quốc. Điều rất đáng tiếc là ngày nay, nhiều giống quý không còn nữa. Ở nước ta, một số giống lan mà ngày nay chúng ta thường gặp là:

Cẩm tố - Hoàng vũ - Thanh trường - Đại mạc (chữ Hán là Đại mặc) - Mạc biên - Mạc lùn - Hoàng điểm - Ngân biên - Bạch ngọc đại diệp - Bạch ngọc tiểu diệp - Trần mộng - Tứ thời - Hoàng kim bảo.

Mấy năm gần đây, giới chơi lan ở nước ta bổ sung thêm được một số loài quý như: Đào cơ - Ngọc phi - Tuyết tố - Chu sa mặc - Tiểu hồng đào - Đổng kỳ lân - Lục vân - Nhật hướng - Đạt ma v.v...

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, người chơi lan nổi tiếng ở đất Thăng Long của nước ta là Vua Trần Anh Tông (thế kỷ XIII). Nhà Vua có vườn lan được xây dựng bên đồi Long Đỗ nằm trong khu vườn Thượng uyển, nay là Bách thảo Hà Nội, có hơn 500 loài quý hiếm nên có tên gọi là "Ngũ bách lan viên". Nhà Vua còn đặt ra chức Nữ quan để chăm sóc vườn lan và thường xuyên giới thiệu với sứ thần các nước.

Trong sử có đoạn viết:

"Một đem Vua cùng Thái giám Trần Được vi hành đến nghe đào nương ca hát ở phường Gia Ngư. Năm ấy nước sông Tô Lịch dâng cao ngập cả phường Cổ Lương đi không được, phải vòng qua đường Thanh Hà. Bất chợt nhà Vưa nghe trong hơi gió thoảng mùi hương lan thơm lạ, làm Vua ngây ngất. Vua ra hiệu dừng kiệu, thưởng thức hồi lâu rồi nói với Thái giám:

- Đã từ lâu, Trẫm nghe nói khu vực này, có một vườn lan quý của phủ Bắc Phương là anh ruột của Lữ Cảnh Phú, Tổng đốc Lưỡng Quảng. Đã mấy lần Trầm cho Lan quan tìm đến nhưng họ cố tình lãnh mặt không tiếp. Vì chuyện này mà làm khó dễ hoá ra hẹp lượng, cho nên Trẫm đành bỏ qua. Đến nay mùi hương lan quý lạ thôi thúc, Trẫm muốn sáng mai, Thái giám làm cách nào đó để Trẫm được vào đó thưởng ngoạn cho thoả lòng mong ước".

Trần Anh Tông quả là một vị vua đức độ khiêm nhường, biết điều tiết một dung lượng tình cảm vừa đủ trong giao tiếp ứng xử, vừa thể hiện một hành động quân tử của bậc đế vương.

Sau nhờ sự giúp đỡ của người bạn thân với chủ vườn lan họ Lữ, nhận lời đưa nhà Vua vào "Bách lan viên" thưởng ngoạn. Nhà Vua được giới thiệu là thứ huynh Tể tướng Trương Hán Siêu. Qua lần sơ giao ấy, nhà Vua được họ Lữ kể cho nghe cách chơi và nuôi trồng lan của người Trung Nguyên và hai người chơi lan sành điệu của đời Đường đạt danh hiệu Quán quân trong hội chi lan "Khôi nguyên đồng chiếm, là nhà thơ Đỗ Phủ và Vương Hy Chi, tác giả của Thiếp lan Đình nổi tiếng. Riêng Đỗ Phủ được phong danh hiệu "Lan Vương".

Ít ngày sau, khi biết "ông anh của Tể tướng" chính là Vua Trần Anh Tông, Sứ thần họ Lữ vào cung báo yết và tặng nhà Vua 40 chậu lan quý gồm các giống: thanh châu, quế châu, lan châu và phúc châu. Để đáp lễ, nhà Vua cũng sai Trần Được và Nữ quan đem tặng lại họ Lữ 30 loài lan quý của "Ngũ bách lan viên".

Nhờ sự đàm đạo trong lần sơ giao ấy, nhà Vua học hỏi được một số kinh nghiệm trong cách chơi lan của người Trung Nguyên và các nhà chơi lan thời Tuỳ Đường, đặc biệt dùng bí quyết "âm dương" để chăm sóc lan. Nhờ vậy mà thời gian sau "Ngũ bách lan viên" trở nên xanh tốt, không kém gì "Bách lan viên" của họ Lữ. Sứ giả các nước đều tấm tắc khen ngợi nói rằng:

"Đất Đại Việt hay phương Đông không có vườn lan thứ hai như thế; "Ngũ bách lan viên" của nhà Vua có thể so với lan viên của Tuỳ Đế ngày xưa".

Sau Vua Trần Anh Tông, lan cũng đã được đông đảo tầng lớp quan lại, nho giáo, sĩ phu ở nước ta đón nhận, nó được coi là biểu tượng của đấng hiền nhân quân tử. Vào thế kỷ XVIII, Phạm Đình Hổ người huyện Thọ Xương, phường Hà Khẩu, Hà Nội (nay là khu vực Hàng Buồm) cũng đã viết trong Vũ trung tuỳ bút: "Khuất Nguyên đã kết hoa lan thành vòng đeo vào cổ đi dọc bờ sông Tương Nguyên mà hát...", trước khi gieo mình xuống dòng Mịch La, Phạm Đình Hổ viết tiếp: "Ta xem như trên bờ sông Tương Nguyên, trong hang núi Qui Mông, lan vẫn mọc ra tự nhiên có cái nhã thảo u hương, nó ở lần với cỏ dại thì lấy đâu được người bón tưới cho hậu, mà cái vẻ thanh hương sao vẫn được kết tử với người đại nhã bậc triết nhân?".

Xem vậy, hèn chi mà từ thuở xa xưa, cây lan đã được giới vương tôn, học giả, văn nhân, triết gia sủng ái mà suy tôn là "Vương giả hương"!

Cố nhà văn Nguyễn Tuân, sinh thời sống tại Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống chơi lan, ông đã viết trong Hương Cuội: "Tôi tự biết không chăm được lan bạch ngọc. Công phu lắm ông ạ. Gió là gãy, nắng già một chút là héo, mưa nặng hột là nẫu cánh. Bạch ngọc thì đẹp lắm, nhưng những giống nhẹ nhàng ấy yếu lắn. Chăm như chăm con mọn. Chiều chuộng quá như con cầu tự. Lầm lỡ một chút là chúng đi ngày. Những quý vật ấy không chịu ở lâu bền với người ta". ý cụ muốn nói: Người chơi lan phải lấy cái chí thành, chí tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng kia, đấy cũng là cái đạo của người quân tử. Nói như vậy cũng còn có nghĩa, không phải bất kỳ ai cũng dễ dàng hoà nhập được với lan, với loài hoa có kỳ hương dị thảo kia... Trước hết người chơi lan phải có cái tâm linh trong sáng thuần khiết, hằng biết hướng về Chân - Thiện - Mỹ, nói cách khác, phải có cái "tâm thế an nhiên vô cực"...

Nếu chỉ thưởng lan bằng hình thức bề ngoài của hoa hay mùi thơm thì chưa đủ, đó chỉ là cái cảm thụ trần tục mang tính sinh học, mà thưởng lan phải bằng cái thần ở bên trong. Càng không phải là một hành động ngẫu nhiên cách đây 2.500 năm. Đức Khổng Phu Tử đã dừng xe trước hẻm núi U Cốc, tấu nhạc thương cho cây lan có vẻ thơm tho mà đời không ai biết đến... Đương nhiên, không phải ông ca ngợi, thương khóc cái mùi thơm sinh học kia, mà là ông ca ngợi cái khí tiết, cái thần thái của loài hoa - sống lầm lũi nơi gió núi mây ngàn, nơi nắng lửa mưa dầu, nơi đất cằn sỏi đá, chỉ bằng khí trời mà vẫn tồn tại, vẫn giữ được phẩm tiết và cống hiến cho đời thứ hương thơm kỳ diệu bất phàm.

Do đó, người chơi lan, thưởng lan, đã lấy lan để suy ngẫm mà vận vào con người, vận vào nhân tình thế thái. Như một điều bất khả kháng, nên Sử ký Tư Mã Thiên đã viết về Ly Tao và con người Khuất Nguyên như sau: "Chí ông sạch nên ông hay nói về hoa thơm cỏ lạ, tính ông liêm nên dù chết cũng không chịu buông lỏng, bị ngập trong vũng bùn lầy, ông thoát ra khỏi chỗ nhơ đục, băng mình ra ngoài đám bụi trần không để cho đời dây bẩn". Tất cả những cái đó là một điều khẳng định về phẩm hạnh, về nhân cách và lý trí của một bậc "Lan Vương".

Người xưa có câu: "Lan sinh ư u cốc, bất dĩ vô nhân nhi bất phương, quân tử tu đạo lập đức, bất vi cùng khốn nhi cải tiết" (Lan sinh sống trong khe núi, không vì không có người mà không thơm, quân tử tu đạo lập đức, không vì cùng khổ mà thay đổi khí tiết). Chính vì vậy, mà phàm những việc tốt đẹp thường được đem so sánh với lan. Để ca ngợi tình nghĩa thắm thiết gọi là "Lan nghị", đề cao tác phẩm ưu tú gọi là "Lan chương", đem chất lan và chất người nối liền với nhau gọi là "Dưỡng tân chi hoa" (Hoa dưỡng tâm). Người ta coi hoa lan là "Đức hoa", muốn nuôi dưỡng đức phải trồng lan, trồng lan càng nuôi dưỡng được đức.

Việc chơi lan ở nước ta và ở Trung Quốc rất được coi trọng. Về quan điểm thưởng lan ngày nay cũng có đôi phần thay đổi so với người xưa. Ví như: Người xưa cho rằng lan tứ thời ra hoa nhiều lần trong năm nên bị coi thường làm mất đi vẻ cao quý, hơn nữa dò hoa ra lại thấp không vượt khỏ lá nên không bộc lộ được vẻ đĩnh đạc, quân tử, trượng phu... Ngày nay người ta lại cho rằng: Lan tứ thời có ưu điểm nổi trội hơn các loại khác vì mỗi năm cho hoa được 3-4 lần. Cấu trúc hoa cũng rất đẹp, màu sắc lại nhẹ nhàng; sáng sủa, và hương thơm cũng không chịu thua kém loài lan nào.

Một vấn đề nữa cũng được đặt ra trong thưởng lãm: Lan mỗi năm chỉ ra hoa một lần (trừ tứ thời), còn 11 tháng chơi lá. Do phiến lá là một bộ phận quan trọng hợp thành cái đẹp chỉnh thể, và đẹp về cảnh và tính cấu thành hoa lan. Người ta dần dần nhận thức được đạo lý "Xem hoa nhất thời, xem lá kinh niên" đối với việc thưởng thức hoa lan, sự chú ý đơn thuần thưởng thức hoa trước đây chuyển sang thưởng thức cả lá.

Người Hà Nội từ xa xưa cho đến hiện giờ, phàm là người đã yêu quý địa lan, trong cách chơi bao giờ cũng tỏ ra lịch lãm. Ví như: Lan thuộc loài giống nhỏ, thanh mảnh như kiến lan, bạch ngọc, tứ thời được trồng vào chậu nhỏ. Lan có thân lớn, lá dài như trần mộng, tố tâm, cẩm tố v.v... được đưa vào chậu lớn. Chậu lan nhất thiết phải được đặt trên đôn, dù là đôn gỗ hay đá. Đôn chậu trồng lan phải là loại có men màu dịu nhẹ, không bao giờ trông lan vào chậu có men chàm hoặc hoa văn loè loẹt làm giảm đi độ tương phản của lá và hoa. Đôi khi người chơi lan còn đưa lan phối hợp với đá thể hiện một tiểu cảnh, ở trước sân hay trong nội thất.

Người ta lựa chọn một miếng đá lũa đẹp, có thể ký lan vào hốc đá, cũng có thể đặt đá lũa bên cạnh chậu lan, sao cho độ to nhỏ giữa chậu lan và miếng đá không có xung đột, mà phải đảm bảo có sự tương ứng. Tiểu cảnh này có tên là "thạch lan". Lan là biểu tượng của tiết sạch giá trong, là hiền nhân quân tử. Đá là biểu tượng của bất biến vĩnh hằng. Chính vì vậy, mà cách đây đã hơn hai trăm năm, một người thưởng lãm lan có tiếng là sành điệu, một công dân của Hà Nội, đó là Phạm Đình Hổ đã phải thốt lên trong Vũ trung tuỳ bút: "Thế mới biết người xưa thường cho tinh thần đi chơi ngoài cảnh vật. Trong cách chơi mà vẫn ngụ cái ý về thế giới thiên luân. Vậy nên, mượn khóm hoa tảng đá để ký thác những hoài bão cao cả".

Ngày nay chúng ta chơi lan, cũng chính là kế thừa một di sản văn hoá của cha ông hướng tâm về Chân - Thiện - Mỹ làm cho con người thêm yêu cuộc sống, để có cuộc sống nhân bản hơn, thánh thiện hơn.

Vũ Khoa

ANHTHU