Phận quạt

Xã hội - Ngày đăng : 06:54, 20/06/2010

(HNM) - Hà Nội đang nóng khủng khiếp và điện bị cắt bất kỳ khiến cho chiếc quạt có cơ hội trở lại. Quạt giấy, quạt nan không chỉ là phương tiện để chống nóng mà từ lâu nó đã làm cho làn điệu chèo trở nên đằm thắm trên các chiếu chèo sân đình...

Đó là những kỷ niệm thuở trai trẻ chợt hiện về khi tôi đến đình Phiến Thị thắp hương cho ông tổ nghề làm quạt họ Đào ở số 4 phố Hàng Quạt. Ông Đầu Quạt đi xa đã vài trăm năm nhưng người làng Đào Xá, Hưng Yên nhớ ơn ông khi cất lán làm quạt tại đất Hà thành. Và cũng chỉ có thợ làm quạt tre ở đây là dùng giấy bản, giấy dó của làng Yên Thái. Bất chợt tôi nhớ có lần một diễn viên chèo chuyên đóng vai đào lệch mách rằng, quạt để múa phải đặt tận thôn Lủ, làng Kim Lũ, Thanh Trì xưa kia. Thảo nào quạt của đào nương thường được dán đôi lớp lụa màu thưa mỏng, tạo nên làn gió thơm mượt, qua cổ tay dẻo đến mê mẩn lòng người.

Nghệ nhân làng Chàng Sơn giới thiệu sản phẩm quạt. Ảnh: Bá Hoạt

Thực ra trên đất Thăng Long - Hà Nội, không chỉ có quạt họ Đào. Nếu quạt Hới của làng Hải Yến, Hưng Yên nuột vì có nan bằng trúc, thì quạt Vác của làng Canh Hoạch (huyện Thanh Oai) lại kỳ thú ở hình tượng đa dạng bằng kim châm trên giấy tạo nên Hay như, quạt nan làng Vẽ (huyện Từ Liêm) chỉ làm bằng tre, nứa đan thành hình lá Vả, hình Thang rõ là đẹp nhưng lại không độc đáo bằng quạt làng Đơ (quận Hà Đông) khi làm bằng những chiếc lông ngỗng… Ấy là chưa nói đến một số làng ở Huế và Quảng Trị cũng làm quạt bán khắp phía Nam. Nhưng điều làm tôi thấy thích thú là những chiếc quạt múa ở chiếu chèo sân đình và các lễ hội làng. Quạt mà cô đào của cô tôi múa sau này còn được thửa ở làng Chàng Sơn (huyện Thạch Thất). Ở làng này nức tiếng có ông Dương Văn Mơ, chuyên làm quạt lụa cho lễ hội và các loại quạt nghệ thuật cao cấp xuất ngoại. Hàng toàn do các thương gia phương Tây hay Nhật Bản đặt mua, với nhiều mẫu và hình vẽ độc đáo. Nhưng có lần tôi hỏi về chuyện làm quạt, giọng ông Mơ buồn buồn:

- Thời buổi này khó sống bằng nghề làm quạt giấy vì nhà nào cũng quạt máy vù vù, khá giả hơn thì điều hòa thổi lạnh đến tận óc. Bỏ nghề thì có lỗi với tổ tiên, mà làm thì...

Làng ông có nhiều nhà làm quạt giấy nhưng giờ chỉ còn vợ chồng ông tha thiết với nghề, nhưng cũng chỉ làm theo yêu cầu của khách. Mặc dù đã có những chuyến hàng bán tới hàng ngàn chiếc nhưng ông Mơ nuối tiếc vì làng nghề này đã mai một. Cũng giống như dân Chàng Sơn, đến 95% gia đình ở làng Vác (huyện Thanh Oai) đã bỏ nghề làm quạt để chuyển sang làm lồng chim. Bán lồng chim tốt tiền hơn nên nhiều gia đình ở đây khá giả. Thế nhưng đình làng vẫn thờ Quạt và khi lễ hội, người ta vẫn không quên trang trí hình quạt. Một đội múa quạt gồm những người trẻ tuổi khi đi rước, giờ đây chỉ để lại dư âm tiếc nuối một làng nghề bị biến mất. Đến nhà bà Lưỡng, một trong số ít người cao tuổi còn làm quạt hiện nay, tôi càng có cảm giác bâng khuâng. “Ít người làm quạt lắm ông ạ. Cả sáu đứa con tôi đều buôn bán hoặc làm việc khác. Con cháu chả tha thiết với nghề của ông cha nữa. Nghĩ xót lắm nhưng đành chịu. Chỉ còn cánh già chúng tôi làm cho đỡ buồn vì không thể làm được việc gì khác”.

Khi tôi hỏi về chuyện bán những chiếc quạt giấy màu tím đang phơi ở ngoài sân, bà chỉ chép miệng.

Lại nhớ, có lần tôi đến nhà một đào nương ở căn hộ cao cấp khu Mỹ Đình để ngắm bộ sưu tập quạt múa suốt một đời của cô, mới biết trong đó có chiếc quạt của một nghệ nhân bị tật nguyền, nổi tiếng ở Hà Nội. Đó là Nguyễn Lân Tuyết, con gái út của nghệ nhân tài hoa Nguyễn Đức Lân cũng ở Chàng Sơn. Nhưng cô lại thoát ly mang theo nghề của gia đình và mở xưởng sản xuất tại phố Hào Nam, quận Đống Đa, Hà Nội và chỉ làm quạt trang trí, khổ lớn, hoặc quạt biểu diễn và lễ hội. Nghệ nhân Nguyễn Lân Tuyết có tài biến hóa mọi họa tiết dân gian vào các nan quạt và trên vóc lụa, với các hình tượng Thánh Gióng, tranh Đông Hồ, thắng cảnh Vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng... để chiếc quạt có thần thái.

Nghệ nhân Nguyễn Lân Tuyết, với chiếc nạng gỗ đã đi khắp nơi, sang Nhật Bản, Mỹ… để quảng bá những sản phẩm tre Việt. Cô đã làm được chiếc quạt có đường kính dài tới 3m để dự triển lãm. Nhưng ở quê cô, hai nghệ nhân Dương Văn Mơ và Phi Quang Bộ đã làm chiếc quạt cao tới 4,5m và chiều dài khi mở ra là... 9m. Nói đến tấm bằng xác nhận kỷ lục Việt Nam của mình, ông Mơ cũng tự hào, nhưng ông khắc khoải lo đến một ngày nào đó Chàng Sơn sẽ không còn ai làm quạt... Nghe ông tâm sự tôi sực nhớ đến bài thơ dân gian “Thằng Bờm”. Nó đã cười vui khi đổi chiếc quạt mo lấy nắm xôi, mới hay sự đời vẫn chỉ quanh quẩn ở cái thực dụng chứ chẳng thể đi xa. Và bỗng dưng hình ảnh cô gái cái ngày xưa ấy trên chiếu chèo sân đình hiện lên với các động tác biến hóa, tạo nên hồn cốt của chiếc quạt trong bao ước lệ. Khi xòe khi khép, lúc là trang sách đề thơ, khi lại là mây bay, sóng tình cuộn chảy, trong điệu múa quạt làm sững sờ lòng người. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã phải vịnh về chiếc quạt rằng:

“Hồng hồng má phấn duyên vì cậy Chúa dấu vua yêu một cái này”

Quạt là như thế. Nó gắn bó với con người từ lâu đời và mang bao nỗi niềm của con tim. Nó là gió. Nó là tình. Nó là múa ca và nó còn là niềm vui của sự sống được gửi trao. Nỗi niềm ngậm ngùi của người già, của một thời miếng cơm manh áo, thật đáng chia sẻ. Một cuộc chia ly không chờ, không hẹn. Cái quạt nồng nàn tình nghĩa ấy với làn gió hương quê đã bỏ ta đi. Cho dù đã một thời những người con đã từng:

“Thức khuya dậy sớm cho cần
Quạt nồng, ấp lạnh giữ phần đạo con”

Nguy cơ mất hẳn những làng nghề làm quạt là sự thật. Khi bước ra khỏi miếu thờ ông Đầu Quạt, tôi chợt dừng chân đứng ngẩn ngơ ở giữa phố Hàng Quạt, vì chợt nhớ tới giọng hát của cô đào chèo nỉ non rằng: “Đêm khuya gió quạt trăng tàn/Trách con gà trống gáy tan tình cờ”.

Hiền Long