Những vị bộ tướng của Hai Bà Trưng
Xã hội - Ngày đăng : 07:03, 05/04/2010
Sinh thành tướng mệnh phù vua đuổi giặc ghi trang sử
Hóa hiển thần thiêng giúp nước cứu dân tạc lưu truyền
Đó là câu đối ở đình Đông Ba, xã Thượng Cát, Từ Liêm, cách trung tâm Hà Nội 20km về phía tây bắc. Tại đây thờ ba võ tướng của Hai Bà Trưng là Quách Lãng, Đinh Bạch Nương và Đinh Tĩnh Nương. “Thành Hoàng Duệ Tích xã Thượng Cát” soạn từ đời Hồng Đức (1470) lưu tại đình cho biết rất rõ sự tích:
Thời Đông Hán, Tô Định sang làm Thái thú cai trị ta, khiến trăm họ đau thương. Con gái Trưng tướng quân là nàng Trắc, vợ Thi Sách, giận Tô Định giết chồng đã cùng em là nàng Nhị, nổi uy trời muốn cất quân đi đánh. Trước đó, động Hoa Lư thuộc Châu Ái có người họ Đinh tên Cần, chuyên làm việc thiện, có nghề làm thuốc. Quách Lương với Cần đồng học lại cùng tuổi, giao ước rằng: con cái hai họ sẽ lấy nhau, nếu sai lời trời đất chu di. Sau đó họ Đinh nghèo, họ Quách giàu. Quách Công năm ba mươi sáu tuổi sinh con trai Thủ Ước, Đinh Công năm ba mươi bảy tuổi sinh con gái Tàm Nương. Năm sau hai nhà đều lại có chửa, Đinh Công sinh con trai đặt tên Tư Lang, Quách Công sinh con gái Y Nương. Đến năm Thủ Ước 19 tuổi, Tàm Nương 18 tuổi, Tư Lang và Y Nương đều 16 tuổi, Quách Công sửa mâm rượu mời Đinh Công, nói: Hai ta tuổi đều 60, trai gái đã trưởng thành, năm xưa hẹn ước thế nào, ngày nay việc hôn nhân của con trẻ nên định đoạt. Rồi gọi trai gái hai nhà cùng có mặt. Bốn người trẻ đều nghe lời, chọn ngày đẹp lứa tốt duyên.
Đình Đông Ba, xã Thượng Cát được cấp bằng công nhận di tích. |
Ngờ đâu cha mẹ hai nhà liên tiếp qua đời, rồi thiên tai, trộm cướp, khiến gia tài họ Quách sạch không. Vợ chồng Tư Lang một đói mười rét, than “Cha ta đã chữa cho hàng nghìn người khỏi bệnh mà không chữa nổi bệnh nghèo của con”. Anh em hai nhà ở ngõ hẹp nhưng vui vẻ tính trời, tháng ngày rìu búa sinh nhai, đêm đêm đọc sách qua ánh đèn đom đóm, giỏ cơm bầu nước thanh cao. Nhưng hai nhà đều sang ba mươi vẫn chậm sinh nở, cùng than “nghèo cũng có mệnh, giàu sang bởi trời, gia đình ta, ông cha làm điều thiện, hoặc là địa đạo còn thiếu nên lòng người chưa yên?”, liền đem ruộng vườn bán hết, được 30 lạng bạc và 12 xâu tiền, tế trời đất xong đi tìm thầy địa lý. Đến núi Đại Hoàng thấy ông già đầu bạc đội mũ hoa cầm gậy trúc vừa đi vừa hát, bèn cùng làm lễ, cầu tự. Ông già rằng: Ta chẳng phải tiên, chẳng phải tục, thường nhân một cuộc thân trong ba kiếp, vui xem địa lý tiêu giao, tự xem phúc thiện nhân gian. Vì người làm phúc xưa vốn không để tâm, nay bọn bay muốn vậy, ta vừa thấy ở núi có hai kiểu đất, hai người nên trở về đem hai bộ hài cốt một bố, một mẹ đến đây ta táng cho.
Quay về nhà, họ Quách đem hài cốt cha, họ Đinh đem hài cốt mẹ làm y lời. Ông già lại bảo ngôi mẹ họ Đinh, tọa Cấn hướng Khôn, sẽ sinh hai con gái, còn ngôi táng cha họ Quách, tọa Đinh hướng Quý, tất sinh một con trai võ tướng, trước là giúp nước, sau chết thành phúc thần. Từ đây nhật dụng hai nhà đều tạm đủ, sau ba bốn năm, ngày sáu tháng hai Mậu Dần (18) họ Quách sinh con trai dĩnh ngộ khác thường, đặt Quách Lãng. Bên họ Đinh mồng bảy tháng Giêng năm Canh Thìn (20) sinh đôi con gái đặt là Bạch Nương và Tĩnh Nương. Năm Quách Lãng 16 tuổi cầm thanh giáo dài đánh nổi trăm người, còn hai nàng cùng 14 tuổi, giỏi thủy chiến, cưỡi thuyền lướt trên mặt nước như bay.
Nghe tin Trưng Vương khởi nghĩa ở vùng Sơn Tây, ba người đến ứng nghĩa. Dừng chân ở Thượng Cát, thấy kiểu đất đẹp, Quách Lãng ứng khẩu: Bình vàng trướng ngọc vây quanh mọc/Cửa gấm, rèm buông thứ tự khai/Thừa khí thành chuông tuy mạch nhỏ /Ở lâu có thể dựng cung đài. Lại nói “Sau này anh em ta quý hiển, lấy đất này dựng cung đài, lấy làng này làm nơi cúng tế”, rồi tới Hát Môn. Họ Trưng cả mừng phong chức “Đô chiêu thảo sứ” cùng với con ông chú Bà Trưng là Trưng Lệnh, ở chốn quân trung gọi là Hoàng đệ. Họ Trưng cho hai nàng họ Đinh đi với người anh họ Quách chiêu dụ các hào kiệt, nghĩa quân theo về lên tới sáu vạn. Hai đạo thủy bộ tiến thẳng đến thành giặc Tô ở Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), toàn thắng trong thời gian ngắn.
Bà Trưng lên ngôi vua, phong em gái Trưng Nhị là Bình Khôi công chúa, thân đệ Lệnh Công làm Tướng quân, hai nàng là Nhị vị công chúa, cho sánh với em vua Lệnh Công, gọi hai công chúa là Hoàng Phi. Lại cho Quách tướng công ăn lộc ở huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai. Quách tướng công về Từ Liêm lập cung ở Thượng Cát, bổng lộc chia cho dân, lấy hòa mục xây thành thói tốt nên được dân đội ơn. Hai nàng lấy Lệnh Công được ba tháng, ngày 10 tháng Ba đua thuyền ở sông Nhị Hà thì tự hóa. Trưng Vương liền truy phong mỹ tự “Trinh khiết đoan trang Bạch - Tĩnh thủy tinh nhị vị công chúa”, cho trang Thượng Cát thờ cúng hương lửa bốn mùa tám tiết đúng lễ nghi.
Trưng Vương ở ngôi được ba năm, Mã Viện sang đánh, vua tôi, văn võ đều hy sinh! Quách tướng quân tử nạn, dân Thượng Cát ghi nhớ công đức, tuân thủ mọi nghi thức theo chức tước thần hiệu thờ cúng từ đấy.
Nước Việt ta vào tay nhà Đông Hán, Tấn, Tề đến nhà Lương ở phương Bắc. Trải nhiều đời, đến Triệu Việt Vương được 15 năm, thì Lý Phật Tử đem quân đánh nhưng liên tiếp bị thua, bèn nghĩ kế cầu hôn. Triệu Quang Phục không muốn tuyệt giao nên nhận lời, chia cắt bờ cõi hai nhà ở “Quân thần châu” (bãi vua tôi) đường biên giới giữa Thượng Cát (phía trên), Hạ Cát (phía dưới), nay Hạ Cát đã đổi thành Đại Cát (cát nghĩa là “cắt”). Dấu vết của đường cắt đó là đường số 70 hiện nay, xưa gọi là đường thiên lý. Nhà Triệu ở thành Ô Diệp (Hạ Mỗ ngày nay), nhà Lý ở Thượng Cát. Phật Tử mật cầu khấn ở miếu thờ Quách tướng quân, sau mộng thấy một người cưỡi ngựa bạch tập tễnh đến nói rằng: “Ngựa của thần bị què, thấy ngài có con ngựa tốt, nếu ngài đổi thì thần xin âm phù khiến dư đồ được thống nhất”. Khi tỉnh dậy thấy con ngựa của mình thường ngày cưỡi, tự nhiên chết, cho là rất linh ứng. Sau họ Lý lấy được móng rồng của Triệu Việt Vương, đuổi họ Triệu chạy đi rồi lên ngôi, gọi là Hậu Lý Nam Đế, truy phong Quách Tướng quân là Linh ứng minh trì Đô chiêu thảo sứ Quách tướng quân Thượng đẳng thần và tạc hai con ngựa để trong miếu thờ, định cho trang Thượng Cát thờ phụng. Từ đây về sau, trải các triều Đinh, Lý, Trần, Lê thỉnh cầu thường linh ứng nên vẫn được gia phong chữ hay lời đẹp để ức năm hương lửa không cùng.
*
Đình Đông Ba nay đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 22-4-1992, gồm cổng, tả hữu mạc, phương đình, đại bái, hậu cung. Thời gian khởi dựng chưa rõ, nhưng cũng phải gần với năm ra đời cuốn thần phả của đình (khoảng năm 1470), trùng tu thời Tự Đức (1871) và Thành Thái (1902). Kiến trúc ngày nay là phần còn lại từ hai lần trùng tu này và đợt dựng đại bái khánh thành 9-2 - Bính Tuất - 2006 do nhà nước và nhân dân đóng góp xây dựng. Kiến trúc và điêu khắc của đình là kết cấu vì gỗ cổ truyền và các mảng chạm tứ linh trên cốn mê và hoa lá cách điệu. Bên trong có kiệu bát cống, đồ tế khí từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, tượng tướng quân, mũ quan võ, đôi hia. Một trong các câu đối cổ ghi:
Giặc Bắc đến nhà vì nước đuổi thù ba kiệt tướng
Trời Nam có chủ cõi bờ giữ dựng một bà Vua
Đình đã được các triều vua ban 32 đạo sắc phong, hiện còn giữ được 13 đạo. Hằng năm vào ngày sinh Quách Lãng, 6 tháng Hai âm lịch, dân dùng xôi, rượu, thịt trâu, bò, ca hát đấu vật; mồng 1 tháng 11, ngày hóa, lễ dùng lợn đen, xôi rượu; và 7 tháng Giêng, ngày sinh của hai vị công chúa Bạch - Tĩnh lễ cúng vui ca hát, dùng lợn đen, xôi rượu; ngày 10 tháng Ba ngày hóa lễ hội ca hát thi bơi thuyền. Ngày Khánh hạ (vui mừng) 10 tháng 8 lễ dùng trâu, bò, xôi, rượu, vui ca hát. Nơi đây gắn liền với tinh thần quật cường của dân tộc ta từ buổi sơ khai, nên người dân có nguyện vọng trùng tu xây dựng tiếp tảo mạc, hậu cung, cổng để hoàn thiện quần thể khu đình đẹp đẽ như buổi ban đầu.
Về cuộc thi viết "Cả nước hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" Cuộc thi còn một kỳ chấm giải vào tháng 10-2010, với 1 giải nhất 10 triệu đồng, 2 giải nhì mỗi giải 5 triệu đồng, 3 giải ba mỗi giải 3 triệu đồng, 10 giải khuyến khích mỗi giải 1 triệu đồng. Chủ đề: Truyền thống Thăng Long - Hà Nội, kỷ niệm sâu sắc qua các thời kỳ, khuyến khích giai đoạn hiện tại, với những con người, sự kiện mới tiêu biểu cho sự nghiệp CNH-HĐH. Để nâng cao chất lượng, BTC quyết định điều chỉnh dung lượng bài dự thi: dài nhất được 2 kỳ, mỗi kỳ 2.000 từ; dùng cả những bài nêu vấn đề nhưng có hệ thống, không sa vào vụ việc cụ thể. Địa chỉ thư điện tử: thi1000nam@hanoimoi.com.vn. Phông chữ VnArial. Rất mong sự hưởng ứng của bạn viết xa gần. BTC |