Để chiến thắng giặc Nguyên Mông hùng mạnh
Xã hội - Ngày đăng : 07:55, 28/02/2010
Lịch sử ghi nhận
Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của quân, dân thời Trần đã đi vào sử sách, không phải chỉ ở Việt Nam mà nhiều nhà viết sử trên thế giới cũng hết lời ca ngợi.
Trong những bản thảo bộ sử biên niên viết bằng chữ Ba Tư của nhà sử học nổi tiếng thế kỷ thứ XIII Rasít út Đin (1247-1318), người ta đọc được những dòng sau đây về một nước Kiafca (Giao Chỉ quốc) xa xôi: “Nước đó có những vùng khó đi lại và nhiều rừng cây, giáp với Karajan (Vân Nam), một phần giáp Hinđôstan và biển... ở nước đó có quốc vương riêng, không thần phục Hãn (Mông Cổ). Tugan (Thoát Hoan), con trai của Hãn, chỉ huy quân đội của Lukinfu (Phủ Giang Tây) để bảo vệ miền Manzi (Nam Trung Quốc) cũng như để ngăn ngừa và chống lại những ai không khuất phục. Một lần, Tugan đem quân vào nước đó, chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đấy trong một tuần lễ. Nhưng bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi, xuất hiện những đội quân nước đó đánh tan đạo quân của Tugan đang lo cướp bóc. Tugan trốn thoát và trở lại về đóng ở Lukinfu”.
Theo các tư liệu lịch sử, quân đội Mông Cổ lúc đó là một đội quân rất thiện chiến: “... Trăm quân kỵ quay vòng, có thể bọc được vạn người, nghìn quân kỵ tản ra có thể dài đến trăm dặm...”. Kỵ đội là ưu thế của họ. Hoặc xa, hoặc gần, hoặc nhiều, hoặc ít, hoặc tụ, hoặc tán, hoặc hiện, hoặc ẩn, đến như rơi trên trời xuống, đi như chớp giật”. Quân Mông Cổ đã học được cách chế tạo vũ khí đánh thành của Tây Á và Trung Quốc, vì thế binh lực của họ trở nên rất hùng mạnh. Đội quân thiện chiến của Mông Cổ đã chiếm gần hết châu Âu và vùng Trung Cận Đông, san bằng thành trì nước Tống, đô hộ toàn bộ nước Trung Quốc xưa. Ở nước Đức thời đó đã xuất hiện bài kinh cầu nguyện: “Chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ của Tácta (Mông Cổ)”. Nhưng đội quân hùng mạnh, thiện chiến đó ba lần tấn công Đại Việt đều bị thất bại.
Trần Quốc Tuấn, vị Tổng chỉ huy quân đội nhà Trần đã từng nói: “Quân cốt tinh, không cốt đông”. Trong Binh thư yếu lược, ông đã chỉ rõ: “Giặc dùng trường trận, ta dùng đoản binh, lấy đoản binh để ngăn trường trận, lấy trường trận để chế đoản binh”. Với sự thiện chiến về thủy quân, tượng binh, bộ binh... cùng với địa thế hiểm yếu của núi rừng, sông ngòi bao bọc, quân dân thời Trần đã đánh tan các đạo quân xâm lược Nguyên Mông do Thoát Hoan chỉ huy. Một câu hỏi được đặt ra: Vậy quân đội thời Trần được trang bị quần áo, vũ khí như thế nào để có thể đánh bại được quân xâm lược?
Trang phục chiến đấu của các dân binh
Lực lượng quân đội của Hưng Đạo Vương đã từng đóng quân tại hương A Cảo - A Côi (nay là xã An Đồng, An Khê, An Thái, An Vũ... huyện Quỳnh Phụ) và dọc theo bờ sông Hóa ra tới gần cửa biển Đại Bàng (huyện Thái Thụy, Thái Bình). Trong quân đội của Trần Quốc Tuấn, có nhiều nông nô, nô tỳ và nông dân tham gia. Họ là những người dân nghèo nhưng rất dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc. Vì nghèo nên họ không thể có áo giáp sắt hoặc áo da thú như những người lính chính quy được triều đình trang bị. Cái khó ló cái khôn! Những dân binh này đã tự tạo cho mình những bộ trang phục, giày dép, vũ khí bằng những nguyên liệu sẵn có, dễ chế tác. Trang phục của họ có độ bền cao mà cung tên, giáo, mác sắc bén của Nguyên Mông cũng khó có thể xuyên thủng.
Trong quá trình về A Sào (xã An Thái) tìm hiểu, chúng tôi được cụ Trần Duy Thụy, 79 tuổi, cùng các cụ cao tuổi trong làng kể cho nghe về những bộ trang phục, vũ khí của dân binh ngày xưa trong đội quân của Hưng Đạo Vương. Cụ Thụy cho biết, trước đây trong nhà thờ của gia đình vẫn có tấm áo giáp, tương truyền của cụ tổ nhiều đời để lại. Áo được cất trong một cái hòm gỗ mít đặt trang trọng trên bàn thờ tổ. Ngày trước, mỗi khi có giỗ tổ, cụ Thụy cùng anh em trong dòng họ vẫn được ông, cha kể cho nghe về cách làm quần áo giáp và chiến công đánh giặc Nguyên Mông của đội dân binh A Sào. Theo cụ Thụy, vải áo giáp có màu nâu, ở bên trong áo có rất nhiều lớp giấy bản, mỗi lớp giấy bản đều được bọc bởi một lớp vải màn hoặc vải tơ tằm (loại vải đũi xấu), sau đó quét sơn ta và nhựa cây cậy lên để các lớp vải và giấy dính chặt vào nhau rồi mới dùng vải nâu (đũi tơ tằm nhuộm nước bột cây cậy) may thành áo, tiếp theo khâu các lớp giấy bản (đã được bọc vải) vào áo. Đặc điểm ưu việt của loại áo này là rất dày, nhẹ, độ xốp cao nhưng rất bền, có thể giúp cho binh sĩ khi bị trúng tên hoặc trúng gươm, giáo của kẻ địch thì vết thương cũng không bị vào sâu trong cơ thể.
Cụ Thụy được ông nội và cha cho biết, chiếc áo thờ này là của cụ tổ lâu đời để lại, cùng với phương pháp chế tác được cất kỹ trong hòm thờ. Từ bao đời nay, gia đình cụ vẫn để áo giáp của tổ tiên trên ban thờ. Nếu để lâu áo bị mục thì những người ở thế hệ tiếp theo phải căn cứ vào bí quyết chế tác áo giáp của người xưa để lại mà phục chế đúng như cũ. Ở giữa ngực áo giáp, vì không có miếng đồng (tròn) để làm vật hộ tâm, nên người xưa đã dùng mây đan dày nhiều lớp rồi ghim lại với nhau thành hình tròn và đính vào trước ngực.
Đôi giày dùng cho những người lính ngày xưa cũng được thiết kế rất gọn nhẹ, có tác dụng giúp cho bàn chân giảm bớt thương tích nếu bị giáo, kiếm chém hoặc bị sa vào chông, gai. Cụ Thụy cho biết, phần bên trong và bên ngoài của đôi giày là lớp vải đũi dày đã được nhuộm nâu kỹ hoặc nhuộm bột cây cậy (giã nhỏ cây cậy, hòa vào nước đun sôi để nhuộm vải). Phần cốt giữa của giày là giấy bản nhiều lớp, được quét bằng nhựa cậy, sau đó dùng sơn ta phết lên cho kín để nước khó thấm vào trong, cuối cùng được chằm (khâu) bằng sợi chỉ gai. Đế giày được làm rất dày (khoảng 2, 3cm). Chiều cao từ đế lên đến miệng giày khoảng 30cm. Ngoài quần, áo, giày, dép ra, người xưa còn tự chế tạo nón chóp (mũ đội) bằng sợi mây. Những khe hở của các sợi mây được lèn chặt bởi lớp bột giấy bản đã được quết bột cậy. Người xưa giã nhỏ cây cậy ra, sau đó cho ít nước vào bột cậy đun sôi, rồi cho bột giấy bản vào đảo đều, dùng bột hỗn hợp đó quét lên các khe hở của mũ mây, sau cùng dùng sơn ta quét lên mũ. Với trí thông minh và tinh thần yêu nước nồng nàn, những người dân hương A Côi, A Cảo xưa đã tự chế tạo cho mình những bộ áo giáp bền chắc, những đôi giày nhẹ, dày, bền bằng những nguyên liệu đơn sơ. Họ đã theo Hưng Đạo Đại Vương vượt sông Hóa đi đánh trận Bạch Đằng lịch sử và các trận chiến khác, góp phần đuổi bọn xâm lược Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi Đại Việt.
Lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh
Các cụ ở A Sào còn cho biết, trước đây khi Hội đền A Sào được mở vào tháng Hai (kỷ niệm ngày sinh) và tháng Tám Âm lịch (ngày mất của Hưng Đạo Vương) hằng năm, bao giờ lễ hội cũng diễn lại cảnh đánh giặc Nguyên Mông. Theo sử sách, như đã nói ở trên, giặc Nguyên lúc đó rất mạnh về kỵ binh, cung nỏ cứng, gươm, dao sắc bén, giáo rất dài. Để chống lại đội quân kỵ thiện chiến ấy, những người lính của Hưng Đạo Vương thường được biên chế theo các đô (mỗi đội quân có 30 đô, mỗi đô có 30-50 người). Khi ra trận, ở mỗi đô thường được chia thành tổ ba người. Trong tổ ba người đó, có một người cầm khiên mây (khiên được đan bằng mây có trát bột giấy hòa lẫn với bột cây cậy). Người cầm khiên có nhiệm vụ đỡ giáo, gươm, tên của giặc để cho người lính thứ hai dùng câu liêm móc, giật chân ngựa hoặc người cưỡi trên lưng ngựa, làm cho ngựa ngã hoặc nếu không thì ngựa cũng lồng lên (vì bị lưỡi câu liêm sắc, giật mạnh làm chân ngựa bị thương), hất tên giặc đang cưỡi trên mình ngựa xuống đất. Người lính thứ ba có trách nhiệm dùng giáo hoặc đao xông vào đâm, chém tên giặc đã ngã ngựa.
Cách đánh đơn giản nhưng được luyện tập thành thục của những người lính đời Trần đã làm khiếp đảm quân giặc và hạn chế rất nhiều ưu thế của kỵ binh kẻ thù. Đồng thời, lễ hội xưa ở đền A Sào, am Qua Từ - thờ Đức Hưng Đạo Đại Vương của những người dân A Sào nói riêng, dân A Cảo- A Côi nói chung, cũng cần được quan tâm khôi phục để góp phần bảo lưu truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của ông cha ta tự nghìn xưa.