Kiến trúc Thăng Long thời Lý

Xã hội - Ngày đăng : 15:42, 07/09/2003

Năm 1010, sau khi lên ngôi Vua, Lý Thái Tổ cho dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La đổi tên gọi miền đất này là Thăng Long – Rồng bay lên cao. Đó là cái tên đầy khí phách tự hào và khẳng định những chủ nhân của Thủ đô Đại Việt này là dòng dõi Tiên Rồng...

Ảnh: Trung AnhNăm 1010, sau khi lên ngôi Vua, Lý Thái Tổ cho dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La đổi tên gọi miền đất này là Thăng Long – Rồng bay lên cao. Đó là cái tên đầy khí phách tự hào và khẳng định những chủ nhân của Thủ đô Đại Việt này là dòng dõi Tiên Rồng.

Truyền thuyết kể rằng, khi xây thành có ngựa trắng hiện ra đi từ Đông sang Tây, đi đến đâu để lại dấu chân đến đó. Vua sai quân lính theo vết chân ngựa mà đắp, thành được xây xong. Sau này chỗ ngựa thần xuất hiện được lập đền thờ gọi là Đền Bạch Mã. Còn theo thư tịch cổ, thành Thăng Long dưới thời Lý Thái Tổ được tính toán, xây dựng quy mô, bề thế, vững chắc, cung điện nguy nga, lầu son gác tía rực rỡ. Toàn bộ kinh thành Thăng Long được bao bọc, bảo vệ bởi 3 vòng thành, Ngoài cùng là La Thành dài khoảng 30km, đắp bằng đất, có chức năng vừa là thành luỹ quân sự vừa là đê ngăn nước lũ từ sông Hồng và những chi lưu của nó đổ về (nay vẫn có tên đê/ đường La Thành). Vòng thành thứ hai là Kinh thành. Trong vòng thành này được quy hoạch như phố phường, có chợ, nơi sản xuất, buôn bán của các phường nghề thủ công và nơi ở của quan lại.

Dưới thời Lý, hình thành 61 phường và đặt 13 trại (đến bây giờ tên các trại vẫn còn như Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Xuân Biểu, Đại Yên, Liễu Giai, Cống Vị, Thủ Lệ, Ngọc Khánh, Vạn Phúc, Kim Mã, Giảng Võ, Vĩnh Phúc). Vòng thứ ba là Hoàng thành, còn gọi là Cung thành hoặc Long Phượng thành. Đây là công trình được xây dựng kiên cố bằng gạch già, có 4 cửa trông ra 4 hướng là : Tường Phù (Đông), Diệu Đức (Bắc), Quảng Phúc (Tây ) và Đại Hưng (Nam). Trong khu vực này xây dựng các công trình để làm nơi làm việc của cơ quan đầu não các dinh thự của quan đầu triều. Đặc biệt, đây là nơi xây dựng Cấm thành, với các cung điện của Vua, hoàng hậu và gia đình hoàng tộc.

Dưới thời Lý Thái Tổ, nhiều cung điện nguy nga, lộng lẫy được xây dựng. Các cung điện này cũng như các công trình xây dựng dưới thời các vị Vua triều Lý sau này tuy không còn giữ lại được để ta chiêm ngưỡng vẻ tráng lệ thể hiện nét tài hoa của người thợ xây dựng Đại Việt, song những tên gọi của các cung điện ấy vẫn còn ghi trong sử sách. Đó là điện Càn Nguyên – nơi thiết triều của vua xây ở nơi chính diện của Cấm thành; bên tả là điện Tập Hiền, hữu là điện Giảng Võ, ở hướng chính Nam có điện Cao Minh. Phía sau điện Càn Nguyên là điện Long An, Long Thuỵ, Nhật Quang và Nguyệt Minh. Ngoài ra còn có 2 cung Thuý Hoa và Long Thuý là chỗ ở cho các cung nữ. Thềm của điện Càn Nguyên, Tập Hiền, Giảng Võ, Cao Minh được gọi là thềm rồng. Lầu song gác tía của các cung điện được tô điểm thêm bởi những đền, chùa được xây dựng rất nhiều, nay trong muôn một cái còn lại là chùa Một Cột như một biểu tượng của Thăng Long thời này.

Từ đời vua Lý Thái Tông về sau, về cơ bản các công trình kiến trúc ở kinh thành Thăng Long vẫn được duy trì, sử dụng, có trùng tu và chỉ xây mới trên nền cũ khi các cung điện đã đổ nát. Ngoài ra, các vị vua kế nhiệm đã chú ý mở rộng, phát triển qui hoạch của kinh thành ra các hướng. Có thể thấy, đời vua Lý Thái Tông cho dựng điện Thiên An trên nền điện Càn Nguyên bị đổ nát, dựng mới điện Tuyên đức, Duyên Phúc, Văn Minh, Quảng Vũ, Phụng Thiên, Trường Xuân; dựng lầu Chính Dương, gác Long Đỗ để vua, hoàng hậu và các hoàng tử, công chúa nghỉ ngơi, ngoạn cảnh.

Đời vua Lý Cao Tông tiếp tục mở mang, xây dựng thêm cung điện ở phía Tây Tẩm điện. Đó là điện Thiên Thuỵ ở vị trí trung tâm, xung quanh có các điện Dương Minh, Thiền Quang, Chính Nghi. Ngoài ra, còn có các điện như Chính Thiên, Thắng Thọ; có gác Thắng Thọ, Nhật Kim, Nguyệt Bảo, Phú Quốc... Ở phía Đông kinh thành, ven sông Nhị Hà, nhà vua cho dựng điện Hàm Quang, Thuỷ Tinh để vua, hoàng hậu cùng triều thần nghỉ ngơi, xem đua thuyền. Để đảm bảo việc ngoại giao và giữ gìn an ninh quốc gia, nhà vua cho xây trạm Hoài Viễn ở bên tả ngạn sông Nhị Hà (nay là Gia Lâm) làm nơi tạm trú cho các sứ thần nước ngoài hay các tù trưởng các bộ tộc miền núi về triều kiến vua. Về phía Bắc, ven Hồ Tây cho xây Cung Dâm Đàm, Từ Hoa...

Theo Vũ Tam Lang, tác giả cuốn Kiến trúc cổ Việt Nam, xuất bản năm 1998, những quần thể kiến trúc cung điện đời Lý thường được bố trí theo trục đối xứng, cân bằng ngay ngắn để đảm bảo tính tôn nghiêm của quyền lực triều đình phong kiến. Mặt bằng kiến trúc đơn giản: chữ Nhất (-) hoặc Nhị (=), có hành lang, có gác kết hợp chặt chẽ với vườn hoa, mặt nước và cây thiên nhiên. Vật liệu xây dựng được huy động trong nước: gỗ quí, gạch, ngói, đá.

Kết cấu gỗ cổ truyền với những hàng cột chịu lực, với số gian là số lẻ của kiến trúc dân gian, song trang trí, thiết bị nội ngoại thất tinh xảo, cầu kỳ, tráng lệ hơn; kích thước, qui mô bề thế hơn. Kiến trúc cung điện thời Lý được chạm khắc ở các bộ phận như chân cột, đầu cột, diềm mái, vì kèo...cùng các thềm bậc tam cấp, gạch tráng men xanh, vàng, ngói ống lưu ly, hoa văn chủ yếu là các hình tượng “Long, Ly, Quy, Phượng” và “Tứ quý” ....tạo nên một hình thức kiến trúc cung điện lầu son, gác tía lộng lẫy, uy nghi có sắc thái riêng.

Đáng tiếc thay, tất cả vẻ đẹp ấy đến nay chỉ còn là hồi cố, bởi vào năm 1214, loạn lạc do các phe phái phong kiến trong nước chống phá nhau đã khiến cho các công trình kiến trúc này bị tàn phá, huỷ hoại. Song điều đáng mừng là trên nền tảng kinh thành Thăng Long thời Lý ấy, các triều đại sau như: Nhà Trần, nhà Lê... đã xây dựng cung điện, dinh thự của vua và hoàng tộc, đương nhiên là với những phong cách kiến trúc khác thể hiện tư tưởng chính trị, thẩm mỹ của thời đại mình. Và, từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập tháng 9 – 1945 đến nay, Hà Nội – Thăng Long xưa lại được chọn làm thủ đô. Những chủ nhân mới của Thăng Long đã xây dựng, phát triển đô thị ngày càng to đẹp, song vẫn nâng niu, giữ gìn những di sản kiến trúc của cha ông từ ngày dựng đô gần ngàn năm trước và tiếp tục kiên trì, phát hiện những tài sản vô giá của cha ông qua hàng loạt cuộc khao cổ vừa qua.

TS Nguyễn Thuỳ Linh

ANHTHU