Tế tửu Quốc Tử Giám Khiếu Năng Tĩnh : Người hai lần làm Đốc học Hà Nội
Xã hội - Ngày đăng : 08:47, 14/12/2009
Trong lời đề dẫn, TS Đặng Kim Ngọc, Giám đốc TT viết: Thế kỷXIX chứng kiến rất nhiều tấm gương của các bậc trí thức - sĩ phu yêu nước đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo và gây dựng nhân tài, xây dựng và phát triển đất nước sáng danh tên tuổi, mà một trong họ được giới trí thức, sĩ phu Bắc Hà hết lòng ngợi ca, đó chính là Tiến sĩ Tế tửu Quốc Tử Giám Khiếu Năng Tĩnh.
Cụ Khiếu Năng Tĩnh sinh năm Ất Mùi (1835), ở thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, Nam Định, là cháu đời thứ 11 của Trạng nguyên Phụ quốc Thượng tướng quân Khiếu Đình Tuân thời Mạc. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Khoa thi năm Canh Thìn (1880), cụ trải nhiều trọng trách trong triều Nguyễn: Đốc học Nam Định, Đốc học Hà Nội, Hàn lâm viện Thị giảng Học sĩ, Tư nghiệp, rồi Tế tửu Quốc Tử Giám. Không chỉ đóng góp về chính trị, văn hóa, đào tạo hiền tài, Khiếu Năng Tĩnh còn là một nhà thơ, nhà văn, biên soạn nhiều tác phẩm có giá trị về văn học, lịch sử, địa lý, Hán Nôm… Thông qua các tác phẩm, đặc biệt là phần văn, thơ, cụ đã thể hiện nhân cách sống cao cả, khí phách hiên ngang trước thời cuộc, phê phán cách sống cầu an, thậm chí bán nước cầu vinh của một số người trong triều đình và ngoài xã hội đương thời.
24 tham luận của các nhà nghiên cứu và của quê hương Nam Định cho một đánh giá tổng quan về con người và sự nghiệp của Tế tửu Quốc Tử Giám Khiếu Năng Tĩnh.
*
Lần đầu tiên tôi gặp nhà giáo Nguyễn Vinh Phúc cách nay ba chục năm, ông rành rọt: “Cụ tổ họ Khiếu của cậu quê ở Thái Bình, nhưng có một chi sang Nam Định, sinh ra Khiếu Năng Tĩnh”. Tôi đinh ninh ông nói chơi chơi, vì cuối những năm 70, bà chủ tịch tiểu khu tôi cứ vặn vẹo tôi có phải người Hoa…
Tới năm 1991, được tặng cuốn “Từ điển những nhân vật lịch sử Việt Nam” của NXB Khoa học xã hội, tôi mới biết “Khiếu Năng Tĩnh là một nhà văn nổi tiếng, một học giả uyên thâm, một nhà giáo dục lỗi lạc thời cận đại, chính cụ đã đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước”. Niềm tự hào dâng trào đẩy tôi về Nam Định tìm hiểu, thu thập thêm về Khiếu Năng Tĩnh… cùng tiền duệ và hậu duệ của cụ.
Năm 1994, tôi gặp lại người bạn Philippines Tanny - cùng theo khóa đào tạo báo chí ở Đức - khi anh đi trong đoàn nhà báo Đông Nam Á tháp tùng Thủ tướng Gochortton (Singapore) sang Việt Nam. Tanny muốn đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám mà anh mới biết qua sách báo. Giới thiệu hàng bia tiến sĩ và các khoa thi thời phong kiến, tôi không quên kèm khoe “cụ Khiếu tôi” là Tế tửu Quốc Tử Giám, vị trí đứng đầu nền giáo dục Việt Nam triều Nguyễn. Cụ đã cùng Nguyễn Thượng Hiền vận động các quan thuyết phục nhà vua hủy cái án oan “chung thân bất đắc ứng thí” của Phan Bội Châu. Khoa thi Hương ở Nghệ, làm chánh chủ khảo, cụ tạo cơ hội cho Phan Bội Châu đỗ Giải nguyên, rất thuận lợi cho các hoạt động cứu nước sau này. Tanny xuýt xoa: “Danh gia vọng tộc đấy!”.
Hội thảo Khiếu Năng Tĩnh cho tôi biết nhiều điều về cụ, để thêm tự hào về dòng họ bé nhỏ của mình. Gặp lại nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, ông cho tôi tham luận “Đốc học Khiếu Năng Tĩnh với Thăng Long - Hà Nội”. Theo nghiên cứu, trong quá trình phụ trách Trường Đốc - dạy sĩ tử đi thi Hương, thi Hội, cụ Khiếu có nhiều biểu hiện đáng kính đáng trọng. Cử nhân Đoàn Triển (1854-1919) từng làm đến Tổng đốc Nam Định, khi theo học gặp nhiều khó khăn, đã được cụ Đốc Khiếu Năng Tĩnh tận tình giúp đỡ, rồi đỗ cử nhân khoa 1886 tại Trường thi Hà Nội - Nam Định hợp nhất. Đỗ cùng khoa còn có Chu Mạnh Trinh, Bùi Thức (thân sinh Phó bảng Bùi Kỷ), Nguyễn Tấn Cảnh (con trai Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản), Nguyễn Hữu Quý (con trai Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý)… Khoa thi Đồng Khánh năm đó, học trò Trường Đốc Hà Nội có 17 người đỗ cử nhân trong tổng số 74 người đi thi, đều là học trò cụ Đốc Khiếu, nhiều người sau này trở thành quan lớn. Riêng Đoàn Triển góp nhiều thơ, văn, in sách Mai Viên thi văn tập, đặc biệt là An Nam phong tục, khảo về phong tục, tập quán nước ta. Khi thầy Năng Tĩnh qua đời, cụ Đoàn thay mặt đồng môn Hà Nội đứng ra làm lễ tang.
Lần thứ hai cụ Khiếu làm Đốc học Hà Nội, khoa thi Hương năm 1900, học trò Hà Nội đỗ cả thảy 43 cử nhân trong tổng số 90. Khoa này có một học trò sau thành nhà văn hóa có tiếng: Cử nhân Phạm Quang Sáu, quê làng Vẽ, huyện Từ Liêm, tác giả của các sách giáo khoa Bắc sử tân biên, Ấu học phổ thông thuyết ước, có nhiều thơ văn in trên Hữu Thanh, Nam Phong, nổi tiếng một thời là Phú cờ bạc răn dạy sự nguy hiểm của thú chơi này. Nguyễn Vinh Phúc kết luận: “Đủ thấy sự đóng góp của cụ Đốc học Khiếu Năng Tĩnh cho giáo dục Hà Nội thật là đáng nể trọng!”. Ông Phúc cũng cho biết, cụ Khiếu có tác phẩm ở nhiều thể loại, cả địa chí, thi tập, vừa viết trên góc độ khảo cứu lịch sử, vừa viết theo phong cách dân gian, bằng chữ Hán, chữ Nôm, tiếc là Quốc đô cổ kim chí, Hà Nội tỉnh chí chưa tìm lại được. Về thơ ca, có Hoài Lai thi tập, Cổ thụ cách vịnh, Cố hương thi tập… Gần đây, các nhà nghiên cứu ở Nam Định đã phát hiện, sưu tầm và biên dịch được trên 60 bài thơ của Khiếu Năng Tĩnh, trong đó có hai bài do bà Trịnh Thị Nga sưu tầm, ông Dương Văn Vượng dịch, xin ghi lại phần dịch thơ để dễ thưởng ngoạn.
Ở Hồ Gươm chuyện thế sự
Cùng bạn gần trưa tới Kiếm Hồ
Neo thuyền dưới liễu chuyện đế đô
Giang sơn vạn dặm quân thù chiếm
Phong hóa ngàn thu giống khác lo
Chẳng liệu về sau điều sống chết
Chỉ hay trước mắt sự sang giàu
Vô tài sớm trở về quê cũ
Luống thấy dân mình kiếp ngựa trâu
Đi chơi xuân Thăng Long linh khí vẫn chưa trầm
Du ngoạn ngày xuân chút dưỡng tâm
Quốc giám đá bia coi cũng rõ
Gia tình Câu quán lẽ càng thâm
Hưng vương đất ấy còn nhiều dấu
Bại kế thư truyền xét chữ châm
Có lẽ trăm năm chừng độ ấy
Thanh bình trở lại mới nghe tăm
Hai bài thơ mà một tâm sự. Bài thứ nhất, đôi bạn dạo chơi trên hồ biếc mà canh cánh chuyện đời, chuyện thời cuộc, xoay ra thế sự, triều đình. Có lẽ bài thơ được viết trong 5 năm tác giả làm Đốc học Hà Nội lần thứ nhất (1882-1886), đầy ắp các sự kiện đau lòng: H.Rivière đánh thành, Hoàng Diệu tuẫn tiết, triều đình nhu nhược cầu hòa, lính Tây chiếm thành, đóng ở trường thi, bắt bớ, chém giết người yêu nước, cả một đồn thủy quân của ta biến thành nhượng địa bất khả xâm phạm của quân Tây dương. Cạnh đó bọn tay sai cung phụng giặc, kiếm chác béo bở, bất chấp liêm sỉ, dân tình khốn khó. Thì ra giao thời là vậy, nên tác giả ai oán, tiếc sức mình không làm gì được, chỉ có thể lui về quê sống mong giữ được lòng trong. Tâm sự thật day dứt của một nhà nho cao khiết, yêu nước thương dân nhưng lực bất tòng tâm.
Bài thứ hai cũng vẫn nặng nỗi niềm với dân, với nước. Khẳng định khí thiêng Thăng Long vẫn tồn tại, còn đó đất cố đô truyền thống văn hiến cao quý, vẫn ấp ủ niềm tự hào về nghìn năm văn vật, cụ luận về sự trường cửu của Thăng Long - Hà Nội. Và cái kết đầy dự báo: trăm năm sau sẽ trở lại thanh bình. Và thực tế chỉ 60 năm sau, với Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cả nước giành lại nền độc lập thanh bình như mơ ước của cụ.
Tôi lại phải nghĩ về Tanny. Nếu giờ gặp lại nhau tại Hà Nội, tôi sẽ khoe tiếp với Tanny những điều mới phát hiện về cụ. Thăng Long - Hà Nội không chỉ là mảnh đất mà Khiếu Năng Tĩnh gắn bó với sứ mệnh giáo dục - đào tạo được những hiền tài, mà còn là nguồn cảm hứng mãnh liệt cho thi ca, sáng tác của cụ. Đó là nguồn cảm hứng yêu nước thương dân, về trách nhiệm của kẻ sĩ với nước non, hy vọng bất tận vào một tương lai thanh bình mà thời đại Hồ Chí Minh đã làm được.
Khiếu Quang Bảo
- - - - - - - -
Về cuộc thi viết "Cả nước hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội"
Cuộc thi còn một chu kỳ chấm giải vào tháng 10 - 2010, với 1 giải nhất 10 triệu đồng, 2 giải nhì mỗi giải 5 triệu đồng, 3 giải ba mỗi giải 3 triệu đồng, 10 giải khuyến khích mỗi giải 1 triệu đồng. Chủ đề: Truyền thống Thăng Long - Hà Nội, kỷ niệm sâu sắc qua các thời kỳ, khuyến khích giai đoạn hiện tại, với những con người, sự kiện mới tiêu biểu cho sự nghiệp CNH-HĐH. Để nâng cao chất lượng, BTC quyết định điều chỉnh dung lượng bài dự thi: dài nhất được 2 kỳ, mỗi kỳ 2.000 từ; dùng cả những bài nêu vấn đề nhưng có hệ thống, không sa vào vụ việc cụ thể.
Địa chỉ thư điện tử: thi1000nam@hanoimoi.com.vn. Rất mong sự hưởng ứng của bạn viết xa gần.
BTC