Tăng cường bảo hộ, quản lý chỉ dẫn địa lý
Nông nghiệp - Ngày đăng : 07:12, 28/03/2023
Thực trạng chỉ dẫn địa lý
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Để nâng cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam, một trong những hướng ưu tiên là bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) Trần Lê Hồng cho biết, số lượng chỉ dẫn địa lý của Việt Nam bảo hộ tăng nhanh. Tính đến tháng 3-2023, Việt Nam đã bảo hộ 128 chỉ dẫn địa lý (bao gồm 115 chỉ dẫn địa lý trong nước và 13 chỉ dẫn địa lý của nước ngoài). Các sản phẩm nông nghiệp như vải thiều Lục Ngạn - Bắc Giang và thanh long Bình Thuận đã được cấp văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản giúp nâng giá trị, khẳng định doanh nghiệp và người dân Việt Nam có đủ năng lực sản xuất các sản phẩm đạt tiêu chuẩn của những quốc gia khó tính.
Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, đào tạo và hỗ trợ, tư vấn (Cục Sở hữu trí tuệ) Mai Văn Dũng thông tin, có 145 sản phẩm OCOP khai thác hiệu quả vùng nguyên liệu địa phương, gắn với chỉ dẫn địa lý, như: Chè Shan Tuyết Hoàng Su Phì (tỉnh Hà Giang), chè Tân Cương (tỉnh Thái Nguyên), cà phê (tỉnh Sơn La), lúa gạo (các tỉnh Sóc Trăng và An Giang)… Tuy nhiên, kết quả khảo sát do Cục Sở hữu trí tuệ thực hiện tháng 11-2022 đối với 108 chỉ dẫn địa lý được bảo hộ tại Việt Nam cho thấy, số lượng chỉ dẫn địa lý được sử dụng để nhận diện trong quá trình thương mại sản phẩm cả thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu còn hạn chế.
Tính đến năm 2022, có 21/94 sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý chưa ban hành quy định sử dụng, 78/94 chỉ dẫn địa lý được sử dụng trên bao bì sản phẩm, nhãn mác, phương tiện kinh doanh… Tại thị trường trong nước, 16 chỉ dẫn địa lý không được sử dụng. Đặc biệt, chỉ có 39/78 chỉ dẫn địa lý tương đương 50% được thường xuyên sử dụng, 31 chỉ dẫn địa lý ít được sử dụng và 8 chỉ dẫn địa lý rất ít khi được sử dụng.
Theo Trung tâm Thẩm định chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu quốc tế Việt Nam, có 30 chỉ dẫn địa lý chưa có công cụ truy xuất nguồn gốc là các phần mềm, mã vạch, QR code...
Nâng cao nhận thức người tiêu dùng
Việt Nam còn nhiều thách thức trong công tác bảo hộ, quản lý chỉ dẫn địa lý. Ông Mai Văn Dũng nhận định, trong khi xu hướng bảo hộ sản phẩm chế biến gia tăng gần đây thì Việt Nam chưa có nhiều sản phẩm chế biến được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Các sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Việt Nam tập trung chủ yếu vào sản phẩm nông nghiệp với hoa quả chiếm 35% tổng số chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, thủy sản 14%, dược liệu 10%, sản phẩm từ cây công nghiệp 10%, gạo 9%… Quy mô sản xuất, kinh doanh của các sản phẩm được bảo hộ lại nhỏ, chủ yếu cấp xã, huyện (chiếm khoảng 65% chỉ dẫn địa lý được bảo hộ).
Mô hình quản lý, hệ thống kiểm soát chỉ dẫn địa lý chưa thống nhất: UBND cấp tỉnh chiếm 7%, Sở Khoa học và Công nghệ 36%, UBND cấp huyện 35%, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 9%... Quy định về quản lý, kiểm soát chỉ dẫn địa lý được ban hành ở nhiều cấp: UBND tỉnh, sở, UBND huyện...
Mặt khác, năng lực quản lý và khai thác nhãn hiệu của các chủ thể sản xuất và kinh doanh được trao quyền sử dụng nhãn hiệu cũng có nhiều hạn chế. “Nhiều chủ thể được lựa chọn để trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình nông dân. Các tổ chức kinh tế này gặp nhiều khó khăn trong tổ chức quản lý, vận hành, đa dạng hóa hoạt động tạo thêm giá trị gia tăng, chủ trì xây dựng và điều phối chuỗi giá trị”, ông Mai Văn Dũng cho hay.
Một thách thức nữa trong công tác bảo hộ, quản lý chỉ dẫn địa lý là người tiêu dùng ít có thông tin và chưa có hiểu biết đầy đủ về sản phẩm được bảo hộ, trong khi đây là tác nhân đóng vai trò quyết định đến sự phát triển thị trường tiêu thụ và thương hiệu sản phẩm.
Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, trong năm 2023 có nhiều hoạt động về sở hữu trí tuệ được xác định là trọng tâm. Bên cạnh việc xác lập bảo hộ nhãn hiệu, sẽ tăng cường các chính sách khuyến khích khai thác phát triển tài sản trí tuệ, ban hành cơ chế chính sách phù hợp, chú trọng bảo vệ quyền đối với chỉ dẫn địa lý, nâng cao nhận thức người tiêu dùng... tháo gỡ khó khăn cho các chỉ dẫn địa lý vươn ra thế giới. Từ đó có “bước chạy đà” vững vàng, cơ hội tạo ra của cải vật chất từ tài sản trí tuệ, trở thành nguồn tài nguyên nội lực quốc gia.