Văn bia "kể" sử làng Thầy
Xã hội - Ngày đăng : 14:28, 03/10/2008
Quần thể di tích danh thắng chùa Thầy có diện tích 25,2 ha; cách trung tâm Hà Nội 20 kilômét về phía Tây Nam, đường đi lại thuận tiện. Đây là điểm du lịch thu hút hàng chục vạn du khách trong và ngoài nước mỗi năm.
Tên làng Thầy, chùa Thầy, núi Thầy, tổng Thầy gắn liền với cao tăng TừĐạo Hạnh (?-1117), một hiện tượng văn hóa độc đáo. Ông tên húy là Từ Lộ, cha là Từ Vinh, mẹ là Tăng Thị Loan, quê ở hưng Yên Lãng, nay thuộc phường Láng Thượng (Đống Đa, Hà Nội). Ban đầu, ông tu ở chùa Láng, sau lên chùa Thầy, ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý Nhân Tông (1072-1127), vốn trước chỉ là một am nhỏ có tên là Hương Hải thuộc núi Sài. Cái tên "Thầy" là cách gọi của nhân dân mang tính thân mật, gần gũi mà vẫn rất kính trọng. Sự kiện nổi bật là việc ngài dùng bài thuốc Nam chữa bệnh cho phu nhân của Sùng Hiền hầu để bà sinh ra bậc quân vương Lý Thần Tông (1128-1138). Khi thiền sư Từ Đạo Hạnh thăng hóa (năm 1117) ở hang Thánh Hóa thì núi Thầy còn được gọi là núi Phật Tích; còn ngôi chùa thờ thiền sư gọi là chùa Thiên Phúc (với ý nghĩa là ngôi chùa linh thiêng và vị thánh Từ Đạo Hạnh ban phúc lộc cho chúng dân). Cái tên chùa Thầy là tên gọi chung cho cả cụm di tích danh thắng.
Bia đá trong khu vực chùa Thầy có ở tất cả các nơi: Bên chân núi, ngang vách đá, trên đỉnh núi, trong chùa, ngoài sân, trong hang động... Nhiều bia nhất là chùa Bối Am (11 bia), chùa Thiên Phúc và am Phật Tích (cùng 9 bia)... Về niên đại, đời Trần (1225-1400) có 1 bia; thời Lê Sơ (1428-1527) có 2 bia; thời Mạc (1527-1595) có 3 bia; thời Lê Trung Hưng (1533-1788) có 18 bia; thời Tây Sơn (1788-1802) có 3 bia; thời Nguyễn (1802-1945) có 24 bia... Bia đá chùa Thầy có thể chia làm 3 loại: Bia trụ, bia dẹt và bia ma nhại. Bia ma nhại (tạc hình bia và khắc chữ trực tiếp trên vách núi đá) chỉ có một mặt; bia dẹt có 2 mặt; bia trụ thì có 4 mặt. Nội dung văn bia rất phong phú: Ghi lại việc xây dựng các công trình (đình, chùa, miếu...), dùng để đề tặng (thơ, ký...) hoặc bầu hậu (ghi công đức người được tôn làm hậu, thánh...), khắc đạo lệ (lệnh chỉ của vua cho dân miễn phu phen tạp dịch để thờ thần phật)...
Tại chùa Long Đẩu, có bia dựng năm Giáp Ngọ (1294), dưới đời vua Trần Anh Tông (1293-1314), là một trong những tấm bia cổ nhất ở Việt Nam (chỉ sau bia chùa "Báo Ninh Sùng Phúc", thôn Vĩnh Khoái, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, dựng năm Đinh Hợi (1107) và bia "Mộ chí phu nhân Phụng Thánh" chùa Phúc Thánh, xã Hương Nộn, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, dựng từ những năm giữa thế kỉ XII). Bia chùa Long Đẩu ghi tên và số ruộng của chùa, cho biết quy mô của chùa rất lớn.
"Bia am Hiển Thụy" khắc trên vách động Thánh Hóa năm Canh Thân (1500), dưới đời vua Lê Hiến Tông (1498-1504), do Tiến sĩ, Lễ bộ Thượng thư Nguyễn Bảo (1452-?) soạn, ghi lại sự tích thiền sư Từ Đạo Hạnh (?-1117), người đã tu luyện và hóa tại đây; được dân gian tôn là Vua - Phật - Thánh và tôn kính gọi là "Thầy" (từ đó, cả tên núi, tên chùa, tên làng, tên tổng đều có chữ Thầy - núi Thầy, làng Thầy, tổng Thầy).
Bia "Thủy các bổ kinh bi" ở chùa Đính Sơn, khắc năm Mậu Tuất (1538) đời Mạc Đăng Doanh (1530-1539), ghi lại việc bà Thái Chiêu Nguyễn Thị Ngọc Phương đã cùng với gia quyến công đức sửa sang lại tòa Thủy Các, cho đục tượng và san bổ kinh Phật để phát cho tăng ni, phật tử.
Trên vách đá chùa Bối Am có 3 bia. Bia thứ nhất là "Bối Am tự bi", khắc năm Tân Mùi (1571), đời vua Lê Anh Tông (1557-1573) cho biết chùa Thầy nguyên thủy được xây dựng từ thế kỉ X, dưới thời Đinh (968-980) và được mở mang dưới các triều đại sau đó. Bia thứ hai là "Hiển Tông am bi ký" khắc năm Nhâm Thìn (1592), đời Mạc Mậu Hợp (1562-1592) ghi việc Mạc Thị Ngọc ý, con Thái úy Tây quốc công, hiến 2 mẫu 6 sào ruộng tư và 1 sào ao cho chùa làm ruộng để dưỡng tăng. Bia thứ ba khắc năm ất Mão (1855), ghi lại 7 bài thơ của Cử nhân, Lễ bộ Thượng thư Phan Huy Vịnh (1800-1870), quê ở làng Thầy, trên đường đi sứ phương Bắc lần thứ hai đã ghé qua quê nhà, đề tặng thơ (lần đi sứ này bắt đầu từ năm 1854 nhưng kéo dài đến tận năm 1857 vì các cuộc nổi dậy chống triều đình ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc đã phong tỏa lối về nước ta).
Bia ở chùa Thiên Phúc là "Thiên Phúc tự tạo lệ bi", khắc lệnh chỉ của chúa Trịnh Căn (1682-1709) cho phép dân Sài Khê được tổ chức đại lễ, được miễn trừ tạp dịch để lo việc hương đăng (đèn nhang) ở chùa.
Tấm bia chùa Long Đẩu có tên gọi là "Trùng tu công đức bi kí" dựng năm Kỷ Sửu (1709), đời vua Lê Dụ Tông (1705-1719), ghi lại việc chúa Trịnh Cương (1709-1729) cùng cung tần Phạm Thị Ngọc Lãnh về vãn cảnh chùa. Bà Lãnh đã cung tiến để xây thêm nhà sau của chùa chính, làm 26 gian hành lang và 2 tòa tam quan. Chúa Trịnh thì ban thêm 200 quan cho việc xây dựng chùa, mở mang chùa.
Bia đình Thụy Khuê là "Tu tả văn khế kí" dựng năm Bính Thìn (1676), đời vua Lê Hy Tông (1676-1680) ghi lại việc 6 giáp của 3 xã Cù Sơn, Nạp Thượng, Tiên Lữ có phường trò và ghi quyền cho thuê cửa đình Thụy Khuê; nhưng vì thiếu tiền quan dịch nên đã bán đứt quyền cửa đình cho xã Thụy Khuê để lấy 60 quan tiền.
Có một bài văn bia độc đáo được khắc trên quả chuông ở chùa Thiên Phúc. Chuông cao 1,22m; đường kính 0,56 m, đúc năm Giáp Dần (1794). Bài ký trên quả chuông này được soạn bởi Tiến sĩ, Lễ bộ Thượng thư Phan Huy ích (1750-1822), quê ở làng Thầy, nhắc đến việc quả chuông cũ của chùa đúc năm Kỷ Sửu (1109), đời vua Lý Nhân Tông (1072-1128), bị quân Tây Sơn phá để đúc tiền năm Kỷ Dậu (1789). Dân làng Thầy đã công đức để đúc lại chuông chùa và treo vào vị trí cũ.
Một trường hợp khá đặc biệt nữa là bia khắc trên đỉnh núi ở bên phải chùa Thiên Phúc. Nguyên thủy, đây là chữ "trực" (thẳng, ngay thẳng) do dân làng Đa Phúc khắc để phân định ranh giới 2 xã Đa Phúc và Sài Khê (nay là 2 thôn của xã Sài Sơn). Sau này, chức dịch địa phương cho khắc thêm 2 dấu chấm ở dưới, biến chữ "trực" thành chữ "chân" (chân thực, rõ ràng), chiều cao của chữ là 1,60m; với hàm ý xóa bỏ ranh giới trên thực địa, đồng thời xóa bỏ cả sự phân biệt trong suy nghĩ, sự chia rẽ mang tính cục bộ giữa nhân dân 2 xã một thời gian dài trước đó. Tuy không xác định được chính xác năm lập bia này nhưng căn cứ vào nội dung văn bia thì có thể khẳng định bia này được khắc dưới thời Nguyễn (1802-1945).
Các bài văn bia ở khu vực chùa Thầy (gồm núi Thầy, làng Thầy, các di tích LSVH...) đã giúp hậu thế hiểu thêm khá nhiều điều về các lĩnh vực địa lí, lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa... Đã qua hơn 10 thế kỉ và mãi mãi sau này, chùa Thầy với lễ hội đông vui bậc nhất cả nước là điểm đến đầy lí thú trong hành trình du lịch văn hóa của khách thập phương. Một vùng non nước chùa Thầy - bài thơ thiên tạo giữa trời - "quyến bước chân" người đến đây và hẹn ngày trở lại.
Đỗ Quốc Bảo
-- - - - - - - - - - - - -
Tài liệu tham khảo :
- Niên biểu Việt Nam - NXB KHXH, H, 1984.
- Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, Bộ quốc gia giáo dục, S, 1962.
- Bảng đối chiếu âm dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử - NXB KHXH, H, 1976.
- Từ điển văn hóa, NXB VHTT, H, 1993
- An Nam chí lược, NXB Thuận Hóa, 2002
- Tư liệu của CLB Hán Nôm TT Quốc Oai