Bình phong

Xã hội - Ngày đăng : 14:09, 04/08/2008

(HNM) - Đó là bức chắn gió, dùng để chia không gian trong những ngôi nhà có tiền sảnh lớn và phòng khách rộng. Bình phong có nguồn gốc từ những tấm “dại” đan bằng tre, nứa khá phổ biến trong kiến trúc cổ Á đông.

(HNM) - Đó là bức chắn gió, dùng để chia không gian trong những ngôi nhà có tiền sảnh lớn và phòng khách rộng.

Bình phong có nguồn gốc từ những tấm “dại” đan bằng tre, nứa khá phổ biến trong kiến trúc cổ á đông. Từ Việt Nam qua Trung Quốc đến Thái Lan, Mi-an-ma... khi từ sân bước lên thềm để qua ngưỡng cửa vào những ngôi nhà cổ, ta thường thấy một hàng hiên với những thức cột hiên nhỏ hay còn gọi cột quân. Giữa các cột hiên là những khoảng trống; chúng được nối với nhau bằng những tấm tre hoặc nứa đan “lóng một”. “Dại” đấy!

“Dại” được dùng để giảm bớt độ sáng có phần gay gắt của nắng Hè vùng nhiệt đới hoặc ngăn độ mạnh của những cơn gió trái mùa có thể gây hại cho sức khỏe con người. Nhà từ trung lưu trở xuống từ châu thổ sông Hồng đến sông Cửu Long dùng “dại” tre, “dại” nứa; nhà cự gia phú hộ mới dùng “dại” gỗ với những đường trang trí thuận mắt. “Dại” là một yếu tố che chắn đặc biệt, giúp kiến trúc có vẻ kín đáo đầy tính khám phá. Như cô gái Kinh thành bận khăn choàng vào mùa Thu là để tăng thêm vẻ nữ tính chứ đâu phải vì sự ấm, “dại” là thế. Ngày nay không mấy ai dùng “dại” vì vườn tre đã bán để xây nhà tầng; lại nữa, tường xây bằng gạch chắc chắn hơn, khỏi ngại đạo chích dòm ngó đêm hôm.

Trong quá trình phát triển thẩm mỹ của con người, “dại” từ một yếu tố kiến trúc thuần túy đã phát triển thành bình phong như ta thấy hôm nay. Thoạt đầu bình phong chỉ được dùng trong cung cấm để che chắn chỗ nghỉ của bậc quân vương hoặc làm kín đáo thêm nơi phòng the của các cung tần mỹ nữ. Chiếc bình phong cổ nhất của nước Việt ta còn lại đến nay là chiếc bình phong lụa che bữa tắm của nàng Tiên Dung và Chử Đồng Tử bên sông Cái trong truyền thuyết.

Trước đây ở Hà Nội, hầu như nhà nào cũng dùng bình phong. Loại tranh đứng này từng như một thước đo độ phong lưu của mỗi ngôi nhà đất Kinh kỳ. Nhà chạy tơ lụa ở phố Hàng Đào, làm ăn với “Chú khách”- thương nhân Trung Quốc - thấy dùng bình phong sơn mài Bắc Kinh hoặc đồ chạm Quảng Đông. Mấy nhà tư sản trước năm 1954 như anh em nhà Đức Âm, Đức Minh theo Tây học lại ưng bình phong cẩn ngà, cẩn đá mua mãi tận Hồng Công, Ma Cao. Các cụ đồ Nho, tiền nong hạn hẹp từ phen quốc ngữ lên ngôi đành vui với bình phong chạm gỗ hoặc khảm trai, khảm ốc. Tuy nhiên, không phân biệt sang hèn, bình phong suốt một thời đã sống bên người Hà Nội.

Bố cục bình phong lấy chuẩn mực làm thước đo vì đây là thứ hàng ngày đập vào mắt, phải mang tính giáo huấn cao. Nó thường gồm bốn bức liên hoàn, nối với nhau bằng những bản lề đồng. Cũng có khi là sáu hoặc tám bức; nhưng các cụ vẫn ưa khổ bốn hoặc tám hơn. Trên mỗi khổ là một bức họa, lúc là sơn - thủy khi lại là nhân vật hay hoa - điểu hoặc cổ đồ coi rất sinh động. Như nêu trên, bình phong quý nhất vẫn là loại cẩn ngà cẩn đá. Có thời túng thiếu, người nhà đã cậy cả đá lẫn ngà ở bình phong đem mại để đong gạo. Thói quen dùng bình phong của người Hà Nội bị lãng quên từ khi các căn hộ tập thể ra đời. Nhà tập thể quá nhỏ đâu cần bình phong. Hơn thế, nhà nhỏ lấy đâu ra gió mà sợ nó lùa, để giăng cái thứ nếu có vào lúc đó đã thành của nợ.

Nay cuộc sống đã khác, cái nhìn theo đó cũng khác đi ít nhiều. Bình phong giờ lại được nhắc đến như một thú chơi thời thượng. Các bộ bình phong cổ từ khảm, chạm đến sơn mài được không ít người ưa thích. Song, cũng như một số đồ khác, món này là thứ chỉ “phù thịnh” nên phải có tiền mới hòng rinh một bức.

Nhật Nam

ANHTHU