Vài dòng kỷ niệm

Xã hội - Ngày đăng : 16:49, 12/05/2008

(HNMO) - Thấm thoắt đã 40 năm, tôi không còn nhớ cụ thể được ngày tháng chính xác ra sao, nhưng cái cốt lõi đã in sâu vào tâm trí, không thể phai mờ. Nó còn đọng lại thành ký ức, chất chồng dồn nén như từng viên gạch được xây thành căn nhà, nếu có thể gọi cuộc đời ta là căn nhà như thế.

Sau ngày Thủ đô giải phóng ít hôm, có một cuộc họp thật trang trọng giữa những văn nghệ sĩ đi kháng chiến trở về và những văn nghệ sĩ trong lòng Hà Nội. Cuộc họp ấy được tổ chức ở phố Tông Đản trong một biệt thư ba tầng có khuôn viên rộng rãi. Tôi cũng được mời dự họp vì trong thời gian ở Hà Nội, tôi hoạt động văn hoá, làm thơ đăng báo, những bài thơ hướng về kháng chiến (mà nay nhìn lại, thơ cũng chỉ thường thường bậc trung) hơn nữa, trước ngày giải phóng Thủ đô, mấy anh em chúng tôi thành lập một đoàn kịch để đón ngày quân ta về Hà Nội, cũng ra mắt công chúng được ít buổi, ngoài ra, tôi (và cả vợ tôi- Mai Phương) còn tham gia nhiều đoàn văn nghệ khác biểu diễn ở nhiều rạp chiếu bóng, trình bày chủ yếu là những bài ca yêu nước, hướng về kháng chiến và dân tộc.

Tôi còn nhớ Ban kịch Tháng Mười ấy, vừa có nghĩa Tháng Mười là mùa gặt, là hạnh phúc, đồng thời Tháng Mười còn là tháng của Cách mạng Liên Xô. Vở kịch chúng tôi công diễn là vở Ngày Mới, kịch nói ba màn, do tôi và anh Vũ Minh Tân và chị Thuỳ Linh cùng bàn bạc nội dung, chia lớp lang, do tôi chấp bút những ngày tôi phải chạy ra vùng Đông Triều để tránh địch bắt lính. Trước ngày tiếp quản Thủ đô ít hôm, chúng tôi trở về Hà Nội một cách lặng lẽ, có anh Hoàng Công Khanh tham gia sửa chữa, thêm bớt và sau đó đề là “sáng tác tập thể”, một kiểu sáng tác được khuyến khích lúc bấy giờ. Sau khi công diễn, đoàn kịch còn được sự hỗ trợ của anh Nguyễn Bắc, giám đốc Sở Văn hoá lúc ấy giúp đỡ bằng cách miễn giảm thuế du hí.

Vì những lẽ trên mà vợ chồng tôi có mặt trong buổi họp mặt vừa trang trọng, quan trọng và thân tình giữa những người “trong làng văn nghệ” nhưng nhiều người chưa hề biết mặt nhau.

Đây là lần đầu tiên tôi gặp trực tiếp những người đàn anh, đàn chị mà tôi từng ngưỡng mộ từ lâu như Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Văn Khoa, Phạm Văn Đôn, Phạm Văn Chừng, Thế Lữ, Song Kim và hàng chục tên tuổi lừng danh khác. Lúc ấy Phạm Văn Khoa chưa là bạn đời của Bích Châu- một diễn viên kịch nói tài năng.

Có một vài chi tiết lý thú như sau này tôi biết, Phạm Văn Khoa đi kháng chiến trở thành đạo diễn điện ảnh, nhưng trước kháng chiến, anh là một trong mấy người đã được phân công dựng đài Độc Lập ở quảng trường Ba Đình để Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn ngày mùng 2 tháng 9 lừng danh, cùng với Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Dực (anh là con cụ Nguyễn Văn Vĩnh, người đã từng từ chối Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp và chết nghèo khổ ở bên Lào. Anh Dực cũng là anh ruột của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, tác giả bài thơ “Đi Chùa Hương” tuyệt tác). Chừng ba mươi năm sau, sau khi chị Bích Châu qua đời, tôi mới biết tôi và chị có họ, cùng chung một cội nguồn ở quê hương Linh Đàm (ngoại thành Hà Nội) nhân một cuộc họp họ, người chị ruột của chị là chị Tài nhà ở Hàng Mành cho biết, và họ hàng còn có nhà viết kịch Tất Đạt, nhà nghiên cứu sân khấu Tất Thắng. Tôi là em chị Bích Châu nhưng là anh của Tất Đạt và Tất Thắng. Tiếc sao, biết muộn quá, nên thời kỳ tôi ở đoàn kịch nói Trung ương, tôi và Bích Châu thân mật lắm nhưng không hề biết là mình có họ.

Trở lại chuyện cuộc họp mặt trên, một không khí chan hoà, cởi mở, không phân biệt trẻ già hay tài năng cao thấp, không phân biệt ngoài hậu phương hay trong lòng Hà Nội, nhưng dù sao lớp trong Hà Nội chúng tôi, nhất là còn trẻ như tôi (mới ngoài 20 tuổi) vẫn khiêm tốn và giữ một khoảng cách với những tài năng đã sáng chói đang có mặt ngay bên cạnh mình.

Văn thơ, họa, nhạc, kịch, điện ảnh… có đủ mặt những “anh hùng”, Thế Lữ gầy gò, Xuân Diệu còn dùng một cái mùi xoa tự tạo bằng một mảnh vải xanh khâu chỉ trắng. Phạm Văn Đôn cao lênh khênh. Trúc Quỳnh, người nổi tiếng trong vai kịch Phồn Y vở Lôi Vũ của Tào Ngu, còn rất trẻ và rất đẹp, Phạm Văn Khoa đang ở ngành điện ảnh còn non nớt, người cao to, khoẻ mạnh, hoạt bát (nếu tôi nhớ không nhầm thì anh Khoa còn hay mặc quần soóc như một nhà thể thao).

Cuộc họp để lại ấn tượng trong lòng chúng tôi một kỷ niệm sâu đậm, vì có thể nói cuộc họp đã tập hợp đầy đủ những gương mặt và tài năng của làng văn hoá văn nghệ cả nước, từ Nguyễn Tuân được giới thiệu là Tổng thư ký… chỉ mặc mỗi quần áo nâu xuềnh xoàng đến Đào Mộng Long người nhỏ thó, từ nhà viết cải lương Sỹ Tiến ở trong thành đến em ruột ông là nghệ sĩ Sỹ Hùng từ hậu phương về…

Phải nói ngành điện ảnh lúc ấy của chúng ta còn đang phôi thai, mới manh nha chập chững, chúng tôi chưa biết gì nhiều về phim ảnh của “hậu phương”, sau đó được xem phim “Việt Nam trên đường thắng lợi” của nhà đạo diễn Liên Xô Các Men làm chung với Phạm Văn Khoa mới thấy có cái gì đó thật mới lạ, thật đáng vui, khác hẳn những phim chúng tôi được xem trong lòng Hà Nội như Cuốn theo chiều gió, Samson và Đalila, Quơ Vadis hay kịch của Tào Ngu, kịch thơ của Vũ Hoàng Chương…

Cuộc họp kết thúc, cuộc đời bình lặng (nếu có thể tạm gọi là như thế) trôi đi, mỗi người lao vào một công việc một ngành nghề mà mình ưa thích và lựa chọn, ít có điều kiện để người nọ gặp người kia.

Tôi cũng không nhớ ngày thành lập ngành điện ảnh Việt Nam là ngày nào, anh Phạm Văn Khoa hoạt động ra sao, nhưng sau đó có xem phim Chung một dòng sông do chị Phi Nga (vợ anh Phan Vũ) và anh Mạnh Linh (diễn viên kịch nói ở Hà Bắc chuyển về Hà Nội sau giải phóng, có thời cùng ở Đoàn kịch nói với tôi) đóng những vai chính. Trước hết, nó đã nhen lên niềm vui và lòng tự hào vì lẽ chúng ta đã có phim của ta, không còn chỉ có xem phim Mỹ, phim Pháp, phim Nhật như trước đây (phim Nhật gây ấn tượng nhất là Rhasamon, tác giả được giải Nobel).

Cũng không còn nhớ do bạn bè truyền tai nhau hay đọc thông báo trên báo, tôi được tin ngành Điện ảnh tuyển diễn viên, lớp đầu tiên ở Hà Nội. Vốn say mê sân khấu chứ chưa hề biết gì về điện ảnh, nhưng đã từng xem phim nhiều, từng lên sân khẩu, tôi ngây thơ nghĩ rằng hai ngành này gần gũi với nhau nên tôi đã hồi hộp chuẩn bị để thi vào làm diễn viên điện ảnh. Háo hức lắm, khấp khởi lắm, nhất là còn trẻ, đầy nhiệt huyết, nên một mặt tôi luyện tập một vài tiểu phẩm nhỏ, mặt khác tôi viết một lá thư tay cho anh Phạm Văn Khoa, nhắc anh về cuộc họp mặt ở phố Tông Đản, coi như “người quen cũ” để mong anh giúp đỡ. Thực lòng, tuổi trẻ bao giờ cũng dễ lạc quan, cũng tự đánh giá mình cao hơn điều mình có, nói cách khác là nhiều chủ quan.

Một ngày mưa tầm tã, cái mưa từ đêm qua, hôm qua, kéo dài sang hôm sau, đường phố cỏ cây ướt sũng, tôi đi bộ từ phố Lê Văn Hưu lên phố Hoàng Hoa Thám (số nhà 72 thì phải) lúc ấy không phải ai cũng có được một cái xe đạp mà đi, xa chừng 6 cây số. Tôi được trình diễn tiểu phẩm của mình trước rất nhiều người tôi chưa hề quen biết một cách đầy tự tin.

Tôi cũng không hiểu nếu may mắn tôi trúng tuyển hôm đó thì cuộc đời tôi đã rẽ ngoặt sang con đường nào, như một số gương mặt diễn viên và đạo diễn có mặt hôm thi tuyển ấy. Sẽ là may mắn cho tôi hay không may mắn cho tôi? Sẽ là diễn viên “lão làng” vì thoắt đã hơn 40 năm, hay nghề diễn viên ấy đã tạo cho tôi thành con người khác, không đi viết văn viết báo như ngày nay?

Lúc ấy anh Danh Tấn, chị Trà Giang chưa xuất hiện. Anh Trần Công còn rất trẻ. Những Lâm Tới, Thế Anh và hàng trăm tài năng đang có mặt trên màn ảnh hôm nay cũng chưa xuất hiện, có nhiều người còn chưa được sinh ra trên cõi thế gian này như Huệ Đàn, Quyền Linh...

Sau cuộc thi tuyển, tôi chờ mãi không thấy được gọi và biết là mình “trượt”. Cũng đáng đời cho một chút ngông nghênh, một chút quá tự tin, một chút đánh giá hơi cao về mình. Phải chăng vì tôi diễn hơi “kịch”? Vì gương mặt gồ ghề xương xẩu của tôi không “ăn ảnh”, vì cái thân tôi gầy gò (tôi chưa bao giờ béo từ trẻ đến nay gần 70 tuổi).

Tôi không hề giận hay oán trách anh Khoa cũng như Ban giám khảo, mà tự an ủi rằng “chắc mình không hợp”. Và thế là tôi yên tâm rẽ sang con đường khác, con đường cũng không kém phần gian truân vất vả so với nghề diễn viên điện ảnh: nghề văn, tiếp tục công việc tôi theo đuổi từ nhiều năm trước, trước khi thi vào ngành điện ảnh.

Một thời gian ngắn sau đó, Xưởng phim (tên gọi lúc ấy) mở xưởng lồng tiếng do anh Bích Lâm, nhà điện ảnh chuyên nghiệp và nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc, tục danh là Phúc Rỗ, có nhạc phẩm “Lời du tử” nổi tiếng, phụ trách, tôi động viên Mai Phương, vợ tôi thi vào và trúng tuyển, làm diễn viên lồng tiếng, lớp đầu tiên, làm việc tại phố Bà Huyện Thanh Quan bây giờ.

Lồng tiếng là một ngành nghề mới, hoàn toàn mới. Vào được đây, trước hết phải là diễn viên. Chỉ khác là không có mặt, chỉ có tiếng trên màn ảnh. Trước đây, ở Hà Nội, chiếu phim Pháp hoặc phim Mỹ, ai hiểu tiếng Pháp thì thấy hay, còn không thì dựa vào phụ đề tiếng Việt, và sau này mới có lời thuyết minh phim. Xem phim có phụ đề thật vất vả, hiểu được lời nói thì không chú ý được hết hình ảnh, mải xem hình ảnh thì vụt qua đi mấy dòng chữ phụ đề. Thuyết minh tốt hơn nhiều, vừa nhìn, vừa nghe được. Nay có phim lồng tiếng, ưu điểm sẽ là vượt trội, dù lúc đầu có người chưa quen, còn thấy “sượng”, vì người tây, người da đen, người Mỹ cũng nói tiếng Việt… nhưng lâu thành quen, nghe và xem một phim lồng tiếng, sẽ lĩnh hội được cả hình ảnh và âm thanh, hay hơn nhiều, nó còn khác xa mộttrời một vực với loại phim câm những năm hai mươi ba mươi của thế kỷ này khi Charlot với cái gậy và cái mũ xuất hiện, không có lời.

Vợ tôi đi làm hai buổi ở xưởng phim lồng tiếng, nhờ vậy mà có người bạn thân là chị Huấn, đồng nghiệp, một cô gái nhẹ nhõm, dễ thương, em gái ruột đạo diễn Phạm Văn Khoa và là vợ nhà văn Đoàn Giỏi, sau chị cũng phải chuyển nghề đi kéo đàn violoncelle ở dàn nhạc giao hưởng, và đã mất trước Đoàn Giỏi nhiều năm. Điều này càng chứng tỏ, với đạo diễn Phạm Văn Khoa thì công việc là quan trọng, dù quen hay người ruột thịt, nếu không hợp với công việc, ông cũng không thể vì tình riêng mà bỏ cái chung.

Thêm một chi tiết cũng đáng nói về Phạm Văn Khoa, đó là tình người, là tấm lòng, sự chân tình của ông. Sau khi chia tay với Bích Châu, chính Phạm Văn Khoa đã lo lắng cho hạnh phúc của người vợ cũ, đã đứng lên tổ chức đám cưới cho Bích Châu tìm sang bến khác, ông mới yên lòng, dù lúc ấy ông không còn khoẻ mạnh trai tráng như trước. Anh em quen biết ông, càng kính phục và yêu mến ông thêm vì lẽ đó, ngoài tài năng của người đạo diễn ngoài cái tâm cái trí của con chim đầu đàn trong ngành điện ảnh Việt Nam.

Người ta nói “thời gian như bóng câu qua cửa sổ”. Đúng. Nhiều người cũ đã ra đi. Bao lớp người mới đã có mặt. Bốn chục năm, năm chục năm, mỗi con người đã làm được bao nhiêu công việc, có thành công, có thất bại. Mỗi ngành cũng đã trưởng thành vượt qua bao nhiêu bão tố chông gai. Ngồi nhớ lại thì nhanh, nhưng một chặng đường dài thì đâu có chóng. Trong bão táp của đất nước, đã có một Việt Nam đứng lên chói lọi. Ngành Điện ảnh Việt Nam sinh ra và trưởng thành cũng đã gặt hái được nhiều thành tích phi thường. Phạm Văn Khoa không còn. Có những con người gồm đạo diễn, diễn viên, quay phim, viết kịch bản… gạo cội, người mất kẻ còn, người rẽ ngang sang đường khác, người về nghỉ tưới cây, người vẫn đang “lặn lội” dưới ánh đèn hàng nghìn nến sáng chói. Tôi không may mắn được là một người của ngành điện ảnh, như có lẽ tôi vẫn coi ngành ấy là bạn của mình, vì hàng ngày, hàng năm xem phim, gặp người quen cũ, tiếp xúc với người sinh sau, theo dõi đều công việc của một ngành công nghiệp tổng hợp, vừa là kỹ thuật, vừa là tài năng, vừa là tâm huyết, vừa là chiến sĩ trên mặt trận văn hoá…

Đôi dòng dông dài trên đây không hiểu có thừa không?

Băng Sơn

LANHUONG