Thơ Nôm Hồ Xuân Hương

Xã hội - Ngày đăng : 08:46, 31/03/2008

(HNM) - Sách do NXB Văn học in đầu năm 2008, dày 340 trang khổ 14,5 x 20,5 cm, là kết quả hơn 40 năm ấp ủ, nghiền ngẫm của GS.TS Kiều Thu Hoạch, một trong những người đầu tiên tham gia nghiên cứu, sưu tầm, dịch thơ Hồ Xuân Hương tại Viện Văn học từ những năm 60 của thế kỷ XX.

(HNM) - Sách do NXB Văn học in đầu năm 2008, dày 340 trang khổ 14,5 x 20,5 cm, là kết quả hơn 40 năm ấp ủ, nghiền ngẫm của GS.TS Kiều Thu Hoạch, một trong những người đầu tiên tham gia nghiên cứu, sưu tầm, dịch thơ Hồ Xuân Hương tại Viện Văn học từ những năm 60 của thế kỷ XX.

Soạn giả đã đọc 20 bản thơ chữ Nôm của bà hiện lưu ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chọn lựa 10 tác phẩm phù hợp với mục tiêu biên khảo, với 351 bài được khắc in hoặc chép tay có độ tin cậy cao. Sau khi đối chiếu và so sánh, tác giả chọn in 82 bài thơ vàmộtsốcâu đối của bà.

Từ việc “đãi cát tìm vàng”, ông đã phát hiện nhiều chuyện lý thú. Ví như bài “Thơ ghẹo ông sư”, trong bản “Xuân Lan”, khắc in lần thứ nhất năm 1913, không phải thơ của Hồ Xuân Hương. Đó là bài thơ ứng tác của cậu học trò Lương Hữu Khánh khi qua đò gặp sư, đã được Vũ Phương Đề chép trong sách “Công dư tiệp ký” khắc in năm Cảnh Hưng 16 (1755).

Chữ Nôm là văn tự ghi âm, có những âm cổ và những chữ cấu tạo đặc thù rất khó đọc nên nhiều người đã đọc sai âm Nôm dẫn đến việc hiểu sai ngữ nghĩa văn bản. Bài Vịnh Thăng Long hoài cổ, cũng in trong bản Xuân Lan, có câu phá đề “Ngân ngất tầng mây một dải cờ”, và tiếp đó câu thừa đề là “Kinh thành ngày trước tiếng bây giờ”. Đọc đến chữ tiếng, chúng tôi ngờ ngợ tính logic của câu thơ trong ngữ cảnh đầy cảm khái, hoài niệm được lắng đọng ở câu kết: “Chốn cũ phồn hoa đã phải chưa”. Quả nhiên, sau khi đối chiếu với bản Nôm “Xuân Hương thi sao”, hóa ra chữ tiếng do chữ tỉnh bị đọc sai. Đây chính là câu thơ vào đề rất phù hợp với cái đề “Vịnh Thăng Long hoài cổ”: Kinh thành ngày trước tỉnh bây giờ, là nói đến vị thế Thăng Long đã bị đổi thành tỉnh thành Hà Nội, vào năm Minh Mệnh thứ 12 (1831). Cũng vì sự hiểu sai đáng tiếc đó mà tác giả một công trình nghiên cứu về Bà Chúa thơ Nôm dài 800 trang khổ lớn đã bình một câu: “Những gì đặc trưng nhất kinh thành Thăng Long mà tiếng còn để lại đến bây giờ...” (trích Khảo luận)

Thật cẩn trọng và khoa học, tác giả đã loại một số bài không rõ xuất xứ trong các bản in trước đây như Đánh cờ người, Tát nước, Thân phận người đàn bà... Một số bài có dấu hiệu tồn nghi về văn bản học cũng bị loại, như Đánh đu, Bà Đanh, Đồng tiền hoẻn. Tác giả còn đề xuất tiêu chí lựa chọn thơ Hồ Xuân Hương một cách khoa học và bảo đảm yếu tố thẩm mỹ giúp loại trừ những bài tục nhảm, rẻ tiền như Ông cử võ. Trong “Tạp thảo tập” của Nguyễn Trạch Phủ biên tập năm 1919, sách sao chép 300 bài thơ, phú, ca ngâm, câu đối... trong đó có thơ Hồ Xuân Hương. Ngoài những bài quen thuộc, tác giả còn phát hiện một bài chưa từng có ở các văn bản khác, đó là bài Nắng cực gặp mưa.

Các bài thơ Nôm của Hồ Xuân Hương in trong tập sách này đều có in phần chữ Nôm từ các bản khắc trước đây. Đối với một số ít bài còn thiếu, tác giả tự thể hiện. Cuối mỗi bài có phần Khảo dịvà Chú thích tỷ mỷ, kỹ lưỡng với đầy đủ cứ liệu khoa học tin cậy, nhờ vậy đã cung cấp cho người đọc nhiều tri thức bổ ích và mới lạ.

Có thể nói, cuốn sách là một công trình khoa học hoàn chỉnh, đầy đủ, chuẩn đúng nhất về văn bản, đáp ứng được lòng yêu mến của tất cả bạn đọc yêu quý những bài thơ bất hủ của nữ sỹ bậc nhất thơ Nôm Việt Nam.

Trần Văn Mỹ

ANHTHU