Người Hà Nội ăn quà - Nét riêng đáng yêu
Xã hội - Ngày đăng : 23:12, 17/02/2008
Nếu ví von một chút, cơm là văn xuôi, thì quà là những vần thơ của thi sĩ tài hoa. Không chỉ mang lại khoan khoái, quà còn mang lại cảm xúc cho người ăn, không kém gì đọc một bài thơ hay, nghe một bản nhạc đẹp.
Hà Nội có những món quà ngon khiến ngòi bút của Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân từng phải rung lên như dây đàn. Và người Hà Nội đã ăn những món quà ngon đó như thế nào, ăn vào lúc nào, có khác gì những nơi khác người khác ăn không?
Chuyện dân gian kể rằng: Một bà mẹ đi kén vợ cho con. Bà không chọn cô gái ăn bánh đúc bẻ đôi chấm mắm tôm mà chọn cô gái ăn bánh giò chả quế. Biết ăn ngon thì biết làm giỏi. Ôi, đôi mắt xanh của bà mẹ tinh tế làm sao! Đúng là cái đẹp đã được bình phương lên.
Người Hà Nội ăn quà cũng có cách riêng.
Món nào ăn sáng thì không dùng ăn trưa. Món ăn trưa thì tối không ăn. Chiều, tối, khuya, mỗi thời điểm có món riêng, mỗi món có “tri kỷ” của nó.
Xôi lúa không ăn chiều. Xực tắc không ăn sáng. Lục tào xá không ăn trưa. Lạc rang ít ăn vào mùa nắng. Mùa rét ít ăn chè đỗ đen...
Bát bún riêu không cần đầy ụ. Lát rau chuối phải thái mỏng tang trông như vành trăng thượng huyền giữa nền xanh rau muống chẻ, rau xà lách. Ngổ ba lá như cánh hoa điểm xuyết, lát ớt đỏ tươi. Ớt xanh là hỏng. Người ngồi bên cạnh cũng không hề nghe tiếng và xụp xoạt, tiếng nhai tóp tép, tiếng nuốt ừng ực... Người ăn cứ nhẹ nhàng như không, như vừa lắng nghe điều gì vừa ngẫm nghĩ vừa ăn, và tưởng như đó là cô gái thắt đáy lưng ong, có đôi môi chúm chím, không bao giờ nói to cười lớn. Và như vậy, người ăn quà như thế cũng không thể ngồi xổm trên ghế hoặc ghếch một chân lên với những móng chân cáu ghét.
Độ chợ Đồng Xuân chưa xây dựng lại, thường gặp mấy cô ngồi xổm ngay giữa nền chợ, ngả cái nón ra, bốc bún bằng tay chấm mắm tôm đựng trong cái chén mẻ cóc gặm, ăn ngấu nghiến, nhồm nhoàn, rồi quệt ngang, vừa đi vừa đánh đàn răng tanh tách. Chắc chắn đó không phải là gái Hà Nội có bà mẹ kỹ tính, nền nếp, dạy từng lời ăn tiếng nói, dáng dứng nét ngồi... ngay từ thuở lên năm lên bảy.
Quà Hà Nội thường không phải ăn cho no, nó tựa như lời yêu chỉ cần nói nửa chừng, để ngỏ một khoảng trời cho sự mơ màng.
Cái tủ kính con, đĩa xôi vò, bát chè đường mới hấp dẫn làm sao. Bát (đúng ra phải gọi là chén) chè chỉ nhỉnh hơn cái chén quả hồng. Chè đường trong vắt. Những hạt đỗ xanh như hoa vàng chập chờn ẩn hiện. Còn xôi vò đựng trong cái đĩa nhỏ xíu, chỉ mấy nhúm ngón tay đã hết. Từng hạt xôi tưởng như rơi rạc mà lại quyện vào nhau khi ta nhai với cảm giác ngọt ngào mềm ấm. Cái hạt xôi vò kỳ lạ, mềm mà không nát, khô mà không cứng, đỗ xanh phủ mỏng ngoài còn bên trong là hạt gạo nếp căng phồng như cái bụng con ong non. Một chút xôi chè ấy ăn vào buổi trưa, thật đúng là Hà Nội. Xôi xéo lại khác, từng cục to nhỏ khác nhau là món ăn sáng. Thì ra “vò” với “xéo” khác nhau lắm nhỉ? Còn con người, khi tầm lòng bị vò, bị xéo, chắc cũng khác nhau lắm?
Món cốm cũng cần cách ăn hương hoa. Không thể dùng đũa và lùa cốm vào miệng. Nhìn các bà các chị nhúm một nhúm cốm đặt vào lòng bàn tay, ngửa cổ cho cốm rơi vào lưỡi, như thả cốm rơi lơ đãng, người ngồi bên cạnh cũng cảm thấy hương thơm hạt cốm lây sang mình. Hạt cốm khi được hoá kiếp một cách hào hoa vậy chắc cũng không tủi thân một đời làm cốm. Các cụ đồ nho có câu: “Mài mực ru con, mài son đánh giặc”. Ăn cốm theo kiểu mài mực thì có lẽ chỉ có người Hà Nội là rõ nhất. Liên tưởng như cô gái sắp cúi đầu e lẹ thốt lên câu nói đầu tiên trong đời, câu nói chỉ nghe thoảng bằng tâm tưởng hơn là âm thanh, câu nói có thể làm chàng trai trở nên một người khác hẳn, một cuộc đời sang trang mới đầy kỳ lạ. Câu nói chỉ một thanh âm: “ANH”.
Phở đang là món ăn thông dụng. Phở cần ăn thật nóng. Người Hà Nội không dùng thìa mà chỉ cầm đôi đũa đứng ngay cạnh nồi nước dùng mà ăn. Phải nóng đến miếng cuối cùng. Cầm thìa vớt bánh phở lên thìa rồi mới đưa lên miệng, như vậy sẽ giảm độ nóng đi nhiều, bánh phở không ngâm kỹ nước dùng, bớt độ ngon, bởi phở ngon phần lớn nhờ nước dùng. Có người ăn phở, đến cuối bát phở, còn nguyên nước, thật phí và không biết ăn. Các gánh phở đầu phố xưa, khách ăn đứng là có lý lắm chứ đâu phải vội vàng hoặc tham ăn.
Xin đi lạc đề một chút. Nhìn mấy cô làm ra vẻ thanh cảnh, ăn phở cứ cầm thìa khêu phở lên mà ăn rồi bỏ lại toàn bộ nước dùng, mà nhớ đến cách đây mấy chục năm, nhiều ông rủng rỉnh, rủ nhau lên cao lâu Mỹ Kinh, Đông Hưng Viên... để khoe cách ăn chơi. Cơm no rượu say, các ông gọi ấm trà Thiết quan âm tráng miệng. Khốn nỗi, đây đâu phải là thứ nước tráng miệng, hơn nữa các ngài quá no, nên chỉ uống một chén hạt mít rồi bỏ. Mấy ông nhà bếp già, mấy cậu hầu sáng mang ấm trà xuống bếp uống với nhau vừa thưởng thức trà ngon vừa cười thầm chê mấy ông khách học đòi làm sang vì các ông mới được uống nước rửa trà thôi. Nước thứ hai trở đi mới là nước ngon lại để cho người ta hưởng. Thành thử vừa mất tiền, vừa bỏ đi cái ngon nhất lại vừa bị cười thầm.
Ngay như món ốc luộc, ở Hà Nội cũng có nhiều cửa hàng chuyên bán. Chỉ một thứ thôi. Khách quen thì đến. Ốc nhồi, ốc biêu, ốc đá, loại nào ra loại ấy, bằng nhau chằn chặn. Bát nước chấm vàng nhạt, miếng gừng vàng sẫm, lát ớt đỏ chói, con ốc giòn sần sật, nóng hôi hổi. Ăn để mà nhớ nó, ăn để thay đổi cảm giác, chứ không phải phục vụ cái dạ dày cần đầy.
Cái xốn xang của Hà Nội sang thu lạ lắm. Chớm đông Hà Nội cũng làm lòng mình không yên. Nó cứ mang mang trong tâm dạ, khiến mình phải đến một nơi nào đó, gặp một ai đó, ăn một món gì đó. Sang thu, nếu chưa được ăn con chim ngói, chưa được ăn chút cốm Vòng thì ít ra cũng phải đi ăn mươi con ốc luộc cho đỡ nhớ, cho yên cái thắc thỏm.
Người Hà Nội ăn quà cho thơm thảo, ăn cho ngon miệng, ăn cho đỡ nhớ, ăn cho thời tiết được mình hưởng ứng, ăn đề hoà mình vào thời tiết, hoà vào thiên nhiên, ăn như để đáp ứng một nhu cầu nội tâm hơn là vị giác.
Tấm mía là món quà phổ thông, ở đâu chẳng có. Người Hà Nội ăn mía cách riêng. Không vừa đi vừa tước mía như thổi sáo ngang, vừa ăn vừa hít, vừa dứt, và nhả bã dọc đường như Mị Châu rắc lông ngỗng. Tấm mía được rửa sạch, róc cẩn thận, tiện thành từng khẩu, để trên đĩa, hoặc để trong lòng bàn tay sạch, đưa từng khẩu lên miệng. Có người còn ướp hoa nhài hoa bưởi một lát rồi mới ăn, vừa ăn cái ngọt vừa ăn cái thơm.
Quả sấu chín không thể cắn mà phải gọt, phải biến nó thành cái vòng xoắn ruột gà, để nguyên thì hình tròn, nhấc lên, nó như cái lò so. Thật đẹp mắt.
Chuối là quà thông thường. Người Hà Nội ăn chuối không ai bóc tuột cả vỏ, cũng không cầm cả quả mà bóc. Phải bẻ đôi quả chuối rồi móc bóc bốn phía. Nửa quả chuối biến thành bông hoa bốn cánh, thịt chuối là cái nhụy hoa vậy.
Tháng sáu, mùa nhãn. Nhãn lồng sen ngâm trong nước đường trong vắt, dần dần biến thành màu trắng ngà... Nếu ăn nhãn quả cũng không đưa cả quả nhãn vào miệng, phùng một bên má như con khỉ vội ăn để dành cạnh lưỡi, người Hà Nội ngắt một quả, lấy móng tay bóc một nửa vỏ nhãn, lộ cái cùi trứng, rồi nhằn hạt nhãn trong răng, thật ngon lành, vệ sinh mà cũng thanh lịch.
Bắp ngô nướng đêm đông, ngô luộc buổi sáng đâu cứ cầm mà gặm nham nhở. Cầm trong lòng bàn tay, dùng ngón tay cái khẽ tẽ ra từng hạt theo từng hàng, hạt ngô như viên ngọc trai được nghiền khẽ khàng giữa hai hàm răng để cái ngọt thơm thấm dần vào vị giác, thế mới là ngon, mới là ngọt, là thơm, là quý...
Còn bao thứ quà nữa của khắp vùng đất nước được chuyển về Hà Nội, người Hà Nội không ăn xô bồ vội vã. Thanh cảnh, tao nhã, lịch sự văn minh, ăn cho ngon, ăn thật đẹp... đã thành nếp thường xuyên hàng ngày, nó giống như dáng đi, nét mặc, lời nói, người Hà Nội đi đâu cũng không lẫn, và ở giữa lòng Hà Nội, người không phải người Hà Nội cũng toát ngay ra cái chất của mình.
Và người Hà Nội cũng ít khi mặt đỏ gay ra đường. Sau một bữa no say, mang bộ mặt đỏ như gấc chín ra đường, để khoe sức uống chăng, khoe tửu lượng chăng, khoe sự phàm ăn tục uống chăng, hay khoe nhiều tiền nhiều của để ăn uống hơn người? Nhiều người có cái máu chỉ một ít bia mặt cũng đỏ, họ xấu hổ, không muốn ra đường, sợ bị hiểu lầm là bê tha rượu chè (cái này dễ đi với cờ bạc, đĩ bợm), mà người đến thế thì còn ra cái gì. Mặt đỏ, nói chuyện với ai, phả hơi rượu vào mặt người ta, lại càng kinh lắm. Tửu- sắc có gì đáng khen đâu. Thật chí lý.
Bữa cơm trong nhà thế nào xong thôi. Tùy hoàn cảnh, rau đậu qua ngày, hay mâm cao cỗ đầy tuỳ ý. Trong nhà, ai biết.
Còn ăn quà, chủ yếu là ở ngoài đường ngoài phố. Cẩn trọng, giữ gìn, nếp sinh hoạt ấy đã thành tiềm thức, tập quán. Có cô gái thích ăn bún ốc, cũng không nỡ và xụp xoạp. Chua cay của món ốc thật hấp dẫn, chảy cả nước mắt nước mũi, có khi còn sặc sụa. Vâng, cô không xấu hổ, nhưng cũng vẫn nghiêng vành nón để người ngoài khó nhìn thấy khuôn mặt xinh tươi kia, ửng đỏ một chút vì chua cay, vì ngon miệng, vì món quà rất con gái này.
Có bà ăn bún chả, cứ ngồi sau bức màn gió, thò tay ra ngoài để đỡ nẹp bún chả cô hàng đưa vào, không muốn ai nhìn thấy mình ăn quà. Lại có những đôi người yêu đưa nhau đi chơi, nhất định không chịu ăn bánh tôm Hồ Tây dù rất ngon, hấp dẫn, bởi ăn xong, mùi mắm muối thô lậu làm sao chịu nổi trong khi họ còn đang thả hồn trong mộng chung. Chả lẽ lời yêu lại được đầm trong nước mắm?
Lại nhớ đến cả cái rổ con, buộc dây, ròng từ gác hai gác ba xuống lúc đêm khuya để mua bát xực tắc. Kéo dây lên, ăn xong thả dây xuống trả bát trả tiền. Hà Nội thật.
Người Hà Nội ăn quà cách riêng của mình vẫn gặp thưa thoáng đâu đây. Nó có bị pha tạp, lấn át đôi khi, nhưng nó vẫn là hương hoa nhài, là làn ánh sáng lung linh, là nét đẹp của Hà thành. Nó giống như người đàn bà xuân sắc, dù có tuổi vẫn không phai nhạt hương trời, vẫn tươi tắn làn môi, vẫn khoan thai dáng đi, vẫn đắm say con mắt, vẫn uyển chuyển tà áo.
Hà Nội không thể là một thành phố không đẹp, không thể xấu. Người Hà Nội vốn đẹp. Cách ăn ăn quà người Hà Nội vẫn mang lại những nét đáng yêu như một bài thơ đầy nhạc cảm.
Băng Sơn